Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 13]
06:25 | 11/12/2017
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Tạm kết)
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 1]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 2]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 3]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 4]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 5]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 6]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 7]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 8]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 9]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 10]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 11]
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Kỳ 12]
KỲ 13: NHIỆT ĐIỆN THAN TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM [PHẦN 2]
Khả năng phát triển các nguồn điện
1/ Nguồn thủy điện.
Tiềm năng kinh tế, kỹ thuật, môi trường về thuỷ điện của Việt Nam được đánh giá có khoảng 70-75 tỷ kWh. Đến nay chúng ta đã khai thác trên 70% tiềm năng và hiện tại thủy điện đóng góp khoảng 42% lượng điện sản xuất, nhưng dự kiến đến 2020 khoảng 18% và 2030 còn khoảng 13%.
Thực tế, thời gian qua chúng ta xây dựng thuỷ điện với quy hoạch chưa tốt, đặc biệt là thuỷ điện vừa và nhỏ, mới chú ý tới hiệu quả phát điện là chính, chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng tổng hợp nguồn nước, phòng lũ hạ lưu, quy trình vận hành hệ thống công trình thuỷ điện bậc thang, thiếu tuân thủ quy định bảo vệ môi trường, trồng rừng thay thế,... đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trên thực tế như chúng ta đã chứng kiến là mất rừng, hạn hán, môi sinh thay đổi, ảnh hưởng tới chiến lược phát triển xanh và bền vững.
Có thể nói, tiềm năng thủy điện Việt Nam không lớn và đã khai thác gần hết. Do vậy, theo chúng tôi, phần tiềm năng còn lại cần phải được khai thác thận trọng về môi trường, môi sinh, an ninh, nếu không sẽ kém hiệu quả và không bền vững.
2/ Nguồn dầu - khí.
Theo đánh giá của ngành dầu - khí [4], trữ lượng dầu - khí của Việt Nam có thể thu hồi là 3,8 - 4,2 tỷ tấn dầu quy đổi, còn trữ lượng đã được xác minh khoảng 1,05 - 1,14 tỷ tấn vào năm 2030, kể cả đầu tư ra nước ngoài.
Cụ thể, dầu thô năm 2015 (20,0 triệu tấn), năm 2020 (20,7 triệu tấn), năm 2025 (21,7 triệu tấn), năm 2030 (22,0 triệu tấn). Trong đó, khai thác nội địa chiếm khoảng 80%.
Khí đốt: năm 2015 (11 tỷ m3), năm 2020 (17 tỷ m3), năm 2025 (17 tỷ m3) và 2030 là 17 tỷ m3.
Nguồn dầu - khí trong nước, với mức độ hiểu biết hiện nay, rõ ràng rất hạn chế, không thể đảm bảo cho nhu cầu. Các nhà hoạch định chính sách cũng đã nhìn thấy bất cập này, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cũng đang nỗ lực tìm giải pháp khắc phục, trong đó kể cả đầu tư ra nước ngoài để bổ sung sản lượng dầu. Tuy nhiên, việc đầu tư ra nước ngoài những năm qua cũng gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, thị trường dầu thế giới cung đã vượt cầu, giá dầu giảm tới 60% (tính từ giữa năm 2014), hiện nay chỉ còn khoảng 50-55USD/thùng, gây bất ổn thị trường năng lượng nói chung, ảnh hưởng lớn tới cả nên kinh tế thế giới. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, giá dầu còn thay đổi khó lường, ảnh hưởng lớn tới nguồn năng lượng trong nước.
3/ Nguồn năng lượng tái tạo (NLTT)
Việt Nam được đánh giá có tiềm năng năng NLTT khá phong phú, tiềm năng gió được đánh giá khoảng 150.000 MW, bức xạ mặt trời trung bình đạt 3,5 kWh/m2/ngày ở phía Bắc, 4,5 kWh/m2/ngày ở phía Nam. Tuy nhiên đến nay tài liệu, số liệu khảo sát, đo đạc còn thiếu và độ tin cậy thấp. Về thể chế đã có quan tâm, nhưng chưa đủ để khuyến khích đầu tư, phát triển sử dụng. Việc sử dụng năng lượng mặt trời để đun nước được đánh giá là bắt đầu có hiệu quả. Đến 2015 tổng công suất điện tái tạo so với tiềm năng còn khá khiêm tốn, mới khoảng 2000 MW (chủ yếu thủy điện nhỏ), chiếm 5% công suất và 3,9% tổng điện năng hệ thống.
Gần đây, một số dự án điện gió, mặt trời ở Ninh Thuận, Bạc Liêu, Quảng Ngãi, Hậu Giang,... đang và sẽ thực hiện, đều với giá đầu tư 2.000-2.600 USD/kWp, hệ số sử dụng công suất trang bị chỉ 20-25% (chỉ bằng 1/3 nhiệt điện than), giá thành điện còn cao.
Để ứng phó với biến đổi khí hậu, NLTT được khuyến khích sử dụng, hiện nay giá điện sản xuất từ gió, mặt trời ở một số nước đã giảm 30-40% so với năm 2010 và theo dự báo quốc tế sẽ giảm mạnh trong 5-10 năm tới, có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Việt Nam phát triển nguồn năng lượng này, tuy nhiên cần theo dõi tiếp.
Dự báo khả năng phát triển năng lượng tái tạo đến năm 2035, theo DT QHNL (2) | |||||
Dự kiến (năm) | 2015 | 2020 | 2025 | 2030 | 2035 |
Tổng công suất NLTT (MW) | 2.000 | 8.000 | 15.000 | 29.000 | 64.000 |
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là khâu cực kỳ quan trọng, nó được đánh giá là tạo ra nguồn năng lượng sạch giá rẻ, là quốc sách "thâm canh" trong năng lượng. Chúng ta đã xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, thực hiện các chương trình, dự án năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, tuy hoạt động khá sôi nổi nhưng tính lan tỏa và hiệu quả còn hạn chế. Mức độ tiết kiệm chưa được đánh giá đầy đủ và tin cậy, được thông báo giảm khoảng 3% tổng tiêu thụ năng lượng. Chúng ta cần xây dựng các chỉ tiêu pháp lý cho hoạt động này.
Việt Nam có tiềm năng tiết kiệm năng lượng lớn, nhưng cần nghiên cứu đánh giá chính xác. Để giảm tiêu thụ năng lượng nhiều hơn thì nền kinh tế cần phát triển các ngành tiêu thụ năng lượng thấp mà đem lại giá trị gia tăng cao, giảm dần các ngành tiêu thụ nhiều năng lượng (nếu không phải là bắt buộc) mà giá trị gia tăng thấp. Muốn vậy phải cơ cấu lại nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng. Cơ cấu các ngành của nền kinh tế quốc dân hợp lý, cho phép giảm cường độ năng lượng lớn hơn.
Theo thống kê quốc tế [15], năm 2014, tiêu thụ năng lượng bình quân thế giới khoảng 1795 kgOE/người, sản xuất điện bình quân khoảng 3100kWh/người. Tương ứng hai chỉ tiêu này, Việt Nam chỉ mới khoảng 35% và khoảng 60%, so với các nước trong vực, chúng ta vẫn còn thấp hơn nhiều.
Điều đáng quan tâm hơn là hiệu quả sử dụng năng lượng, đó là mức tiêu thụ năng lượng, tiêu thụ điện để làm ra một đơn vị GDP (thường gọi là cường độ năng lượng/điện đối với GDP). Ở một số nước vào năm 2010 như sau:
Quốc gia | Thái Lan | Nhật Bản | Hàn Quốc | Đức | Trung Quốc | Nga |
CDĐ (kWh/usd) | 0,56 | 0,22 | 0,40 | 0,25 | 1,5 | 1,0 |
CĐNL-kgOE/nghìn USD | 199 | 154 | 239 | 164 | 231 | - |
Ở Việt Nam hiện nay cường độ điện khoảng 1,15 - 1,2kWh/USD, lại còn được dự báo tăng lên vào 2020 - 2025 cường độ năng lượng khoảng 350kOE/ngh.USD. Đồng thời hệ số đàn hồi điện - tỷ lệ tốc độ tăng trưởng điện so với tốc độ tăng GDP của các nước nói chung nhỏ hơn 1, còn Việt Nam hiện tại trên 1,5 và có xu thế tăng!
4/ Nguồn Uranium.
Nguồn quặng uranium, cho tới nay chỉ mới thăm dò chủ yếu trên bề mặt (với cách khoan nông), địa vật lý (mới chỉ xử lý mẫu công nghệ với khối lượng nhỏ vài tấn đến vài chục tấn quặng), chưa thể tiến hành khai thác. Theo báo cáo của cơ quan địa chất thì tiềm năng urani của Việt Nam có khoảng 200 ngàn tấn U3O8 (trong đó, cấp C1: 113 tấn, cấp C2: 16.000 tấn). Do vậy, chúng ta cần phải đẩy mạnh điều tra thăm dò bổ sung trử lượng, chuẩn bị công nghệ khai thác, để trong tương lai mới có điều kiện chủ động sử dụng nguồn nhiên liệu này.
Như chúng ta đã biết, năm 2016 do kết quả dự báo nhu cầu điện thấp hơn trước và tình hình tài chính có khó khăn, Chính phủ đã quyết định tạm dừng điện hạt nhân Ninh Thuận. Do đó, trong thời gian tới, điện hạt nhân chưa thể là nguồn điện đảm bảo cho phát triển đất nước.
5/ Nguồn than.
Từ tài liệu Quy hoạch than 403 [3] cho thấy, tổng tài nguyên - trữ lượng than của nước ta, tính đến 31/12/2015 là 48,8 tỷ tấn, trong đó than đá 48,4 tỷ tấn, than bùn 0,34 tỷ tấn. Tài nguyên và trữ lượng huy động vào quy hoạch là 3,05 tỷ tấn, trong đó than bùn 0,06 tỷ tấn. Nguồn than đồng bằng Sông Hồng, tuy được đánh giá có tiềm năng lớn, vẫn đang được nghiên cứu thăm dò, chưa thể đưa vào quy hoạch.
Theo quy hoạch 403, sản lượng khai thác than có thể đạt như sau: năm 2015 (55 triệu tấn), năm 2020 (47-50 triệu tấn), năm 2025 (51-54 triệu tấn), năm 2030 (55-57 triệu tấn).
Như vậy, so với quy hoạch than 2015, sản lượng than đã được điều chỉnh giảm 1/3. Tuy nhiên, để có thể đạt được kế hoạch đề ra, ngành than cần thăm dò nâng cấp bể than Đông Bắc, thực hiện hàng chục dự án mở rộng các mỏ: Cẩm Phả, Hòn Gai, Uông Bí, Na Dương,… Bể than đồng bằng Sông Hồng cần thăm dò kỹ hơn và lựa chọn công nghệ khai thác phù hợp, hiệu quả, đảm bảo an toàn môi trường, làm cơ sở cho kế hoạch khai thác trong các giai đoạn tới.
Với tình hình thực tế hiện nay, giá than thế giới giảm nhiều, nay đang khoảng 50USD/tấn và có khả năng giảm tiếp [14,15]. Còn than khai thác trong nước với công nghệ thấp, giá thành cao, nhập than giá rẻ để sử dụng, dành tiềm năng cho tương lai, phải chăng là quan điểm hợp lý. Vấn đề quan trọng là cần có tổ chức, chính sách quản lý nhập bền vững. Việc nhập than cho sản xuất điện thực tế đã diễn ra khá mau lẹ, các doanh nghiệp thương mại trong năm 2016 đã nhập khoảng 8 triệu tấn than (25% thị phần). Chín tháng đầu năn 2017 cũng đã nhập với số lượng tương đương.
Đón đọc kỳ tới: Nhiệt điện than trong quá trình chuyển đổi cơ cấu năng lượng Việt Nam [Phần 3]
PGS, TS. BÙI HUY PHÙNG - VIỆN KHOA HỌC NĂNG LƯỢNG
Tài liệu tham khảo chính
1. QHĐ VII ĐC (2016)
2. Dự Thảo Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia (giai đoạn 2016-2025 tầm nhìn 2035) - năm 2017
3. Quy hoạch phát triển ngành than 403/2016
4. Quy hoạch dầu-khí (2013)
5. Luật Điện lực (2013)
6. Bùi Huy Phùng -Phương pháp tính toán tối ưu phát triển bền vững HTNL, NXBKHKT (2011)
7. BC KK KNK quốc gia 2010, Bộ TN&MT (2015); và Báo cáo cập nhật lần 2 của VN Bộ TNMT (9/2017)
8. Bùi Huy Phùng - Quy hoạch năng lượng tổng thể là cơ sở khoa học và pháp lý cho quy hoạch các phân ngành năng lượng, Tạp chí Năng lượng Việt Nam (6/2012)
9. Bùi Huy Phùng - Xu thế phát triển nhiệt điện than thế giới trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Tạp chí Năng lượng Việt Nam (1/2016)
10. Bùi Huy Phùng - Kiến nghị giảm NĐ than trong QHĐVII-ĐC, Tạp chí Năng lượng Việt Nam (3/2016)
11. Bùi Huy Phùng - Thách thức phát triển bền vững năng lượng VN, Tạp chí Năng lượng Việt Nam (6/2016)
12. TLHN khu vực châu Á - Lộ trình chuyễn đổi cơ cấu năng lượng đảm bảo công bằng xã hội (9-2017)
13. Bùi Huy Phùng - Nhiệt điện đương đại và xu thế hoàn thiện, Tạp chí Năng lượng Việt Nam (10/2017)
14. IEA Energy Statistics 2015, 2016
15. BP Statistical Rewiew of the World Energy, 2015, 2016