RSS Feed for Vì sao không xây hồ chứa thật lớn trên lưu vực sông Ba để điều tiết lũ cho vùng hạ du? | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ sáu 28/11/2025 10:35
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Vì sao không xây hồ chứa thật lớn trên lưu vực sông Ba để điều tiết lũ cho vùng hạ du?

 - Cơn bão số 14 vừa qua đã gây ra trận lũ lịch sử tại Trung bộ - Tây Nguyên - Nam bộ, đặc biệt vùng Phú Yên (cũ). Ngay sau lũ, trên nhiều diễn đàn xuất hiện các ý kiến trái chiều (phần lớn quy trách nhiệm cho hệ thống thủy điện trên sông Ba) - cho rằng: Thủy điện “góp phần gây lũ”, “xả lũ bất thường”, hoặc “đập tràn nhỏ, không đủ sức giữ lũ”. Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng - cũng là yêu cầu khách quan khi nghiên cứu thiên tai là: Hệ thống bậc thang thủy điện trên sông Ba được bố trí có hợp lý về kinh tế - kỹ thuật không? Vì sao không xây đập thật cao, hồ chứa thật lớn để chống lũ? Và liệu có cần xây hệ thống “thoát lũ nhanh ra biển” phía sau hồ Sông Ba Hạ hay không?... Dưới đây là phân tích, gợi ý một số giải pháp của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam. Rất mong nhận được sự chia sẻ của bạn đọc.
Sự thích nghi trong vận hành thủy điện - Bài học từ những mùa mưa bão lịch sử ở Việt Nam Sự thích nghi trong vận hành thủy điện - Bài học từ những mùa mưa bão lịch sử ở Việt Nam

Những năm gần đây, biến đổi khí hậu đã góp phần làm thay đổi sâu sắc quy luật mưa, lũ và dòng chảy tại Việt Nam. Các hiện tượng thời tiết cực đoan - từ hạn hán lịch sử năm 2023 đến chuỗi siêu bão và mưa lũ kỷ lục 2024-2025 đã tạo ra thách thức chưa từng có đối với công tác vận hành hệ thống thủy điện. Bài viết dưới đây của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam phân tích cách các nhà máy thủy điện và cơ quan điều độ đã thích nghi trong bối cảnh khí hậu biến động mạnh, làm rõ bài học quản trị, công nghệ và phối hợp liên vùng… từ đó đề xuất một số giải pháp cần thực hiện tiếp theo.

Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ 16.100 m3/s ngày 19/11, vượt lũ lịch sử 1993 và câu hỏi về vai trò của thủy điện? Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ 16.100 m3/s ngày 19/11, vượt lũ lịch sử 1993 và câu hỏi về vai trò của thủy điện?

Rạng sáng 19/11/2025, nước trên sông Ba dâng nhanh, cuồn cuộn đổ về vùng hạ du. “Nước lên nhanh quá, chỉ trong vài giờ, sân nhà tôi đã ngập hơn nửa mét” - ông Nguyễn Thành Hòa, xã Hòa Hội (Phú Hòa) kể lại trong lúc đang cùng gia đình dọn dẹp sau lũ. Cùng lúc đó, Công ty Thủy điện Sông Ba Hạ thông báo tăng lưu lượng xả lên tới 16.100 m³/s - mức cao nhất từ khi Nhà máy vận hành, thậm chí vượt cả các trận lũ năm 1993 - mốc mà nhiều người Phú Yên vẫn nhắc đến với nỗi kinh hoàng. Việc xả lũ lớn, các xã vùng trũng ở Phú Hòa, Đông Hòa, Sơn Hòa ngập sâu, giao thông bị chia cắt. Người dân kịp chạy lũ, nhưng nhiều diện tích hoa màu, gia súc, vật dụng gia đình không thể cứu… Dưới đây là tổng hợp, phân tích, nhận định của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam.

Từ bão số 14 - Nhìn lại vai trò hệ thống thủy điện và nhu cầu điều chỉnh Quy trình vận hành liên hồ chứa hiện hành Từ bão số 14 - Nhìn lại vai trò hệ thống thủy điện và nhu cầu điều chỉnh Quy trình vận hành liên hồ chứa hiện hành

Mặc dù hình thành cuối mùa mưa bão, nhưng cơn bão số 14 có sức tàn phá không hề nhỏ, đã gây ra đợt mưa lũ diện rộng hiếm gặp trong nhiều năm gần đây. Từ ngày bão đổ bộ cho đến khi suy yếu thành áp thấp nhiệt đới, các tỉnh Trung Trung bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên và khu vực Đông Nam bộ liên tục có mưa to, đến rất to. Lượng mưa ghi nhận tại nhiều trạm lên tới 300-450 mm/24 giờ, đặc biệt ở Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Lâm Đồng. Một số nơi vùng núi đạt trên 600 mm, gây ra lũ ống, lũ quét và sạt lở đất. Khi mưa lớn trùng với thời điểm các hồ thủy điện đang ở cuối mùa phát điện, mực nước tiệm cận mực nước dâng bình thường, sức ép đối với hệ thống vận hành liên hồ chứa càng tăng. Mưa lũ lần này đã cho thấy những giới hạn của các hồ chứa, đặt ra yêu cầu phải đánh giá lại toàn diện. Bài viết dưới đây của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổng hợp diễn biến mưa lũ, phân tích vai trò của các hệ thống thủy điện, đánh giá mức độ phù hợp của các Quy trình vận hành liên hồ chứa hiện hành; đồng thời kiến nghị việc hoàn thiện và thích ứng với bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.

Bối cảnh lưu vực sông Ba và vai trò của hệ thống hồ chứa hiện hành:

Lưu vực sông Ba trải dài từ Gia Lai - Đắk Lắk xuống Phú Yên (cũ), địa hình dốc, hẹp, sông ngắn, độ dốc lớn, lũ tập trung nhanh. Đây là một trong những lưu vực “nhạy cảm lũ” nhất miền Trung. Do điều kiện địa hình và cấu trúc dòng chảy, lượng lũ chỉ trong vài giờ có thể vượt xa khả năng điều tiết của các hồ chứa nước vừa và nhỏ.

Hiện trên lưu vực sông Ba có gần 30 hồ chứa lớn, nhỏ. Tuy nhiên, chỉ 5 hồ được giao nhiệm vụ giảm lũ cho hạ du theo Quyết định 878/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm:

1. Hồ An Khê - Ka Nak.

2. Hồ Sông Hinh.

3. Hồ Krông H’năng.

4. Hồ Ayun Hạ.

5. Hồ Sông Ba Hạ (ở hạ lưu, giữ vai trò quan trọng nhất).

Tổng dung tích phòng lũ của các hồ nêu trên khoảng 530 triệu m³, trong khi lượng nước về trong cơn bão số 14 được ước tính lên tới gần 2 tỷ m³ trong vài ngày. Điều này cho thấy: Ngay cả khi tất cả các hồ đều “rỗng” trước bão, chúng cũng chỉ có khả năng giữ lại 1/4 lượng nước lũ - và đó là trong điều kiện lý tưởng hiếm khi xảy ra. Sơ đồ liên hồ chứa lưu vực sông Ba nêu ở hình dưới đây:

Lũ trên lưu vực sông Ba: Nhìn lại hệ thống thủy điện, nguyên nhân lũ lịch sử và gợi ý giải pháp
Sơ đồ liên hồ chứa lưu vực sông Ba.

Vì sao không thể xây đập thật cao để có hồ chứa lớn chống lũ?

Nhiều người đặt câu hỏi: “Nếu biết miền Trung hay lũ, sao không xây hồ thật lớn để điều tiết?” Về mặt cảm tính, đây là yêu cầu hợp lý. Nhưng với chuyên môn thủy lợi - thủy điện, cùng thực tế địa hình và địa chất của lưu vực sông Ba, câu trả lời là: Địa hình miền Trung không cho phép xây hồ chứa khổng lồ.

Miền Trung có đặc điểm cơ bản như sau:

1. Lòng sông hẹp, dốc, hai bên là đồi núi cao.

2. Không có các thung lũng rộng và sâu tự nhiên để tích nước.

3. Nếu xây đập rất cao, khu vực bị ngập sẽ lan xa hàng chục km², ảnh hưởng đến đất rừng, đất nông nghiệp và khu dân cư.

Hệ quả là nếu xây đập cao để có hồ chứa nước lớn, thì chi phí giải phóng mặt bằng, di dời dân cư và tái định cư vượt xa tổng mức đầu tư thủy điện, không có tính khả thi về mặt kinh tế.

4. Địa chất yếu, rủi ro mất an toàn đập. Miền Trung có nhiều vùng địa chất karst, đứt gãy sâu, nền đá nứt vỡ. Xây đập cao hàng trăm mét tạo áp lực cực lớn lên thân đập và nền móng, dễ gây thấm, nứt và mất ổn định. Rủi ro sự cố đập - trong bối cảnh biến đổi khí hậu là không thể chấp nhận.

5. Lũ cực trị không thể được triệt tiêu chỉ nhờ hồ chứa. Ngay cả hồ lớn (như Dầu Tiếng, Trị An, Sơn La) cũng không thể ngăn được lũ lịch sử vượt thiết kế. Khi lượng mưa gấp đôi, hoặc gấp ba thiết kế, hồ đầy nhanh và phải xả lượng nước lớn để đảm bảo an toàn đập. Lúc đó:

- Q_xả ≈ Q_về hồ.

- Hồ không còn khả năng cắt lũ, chỉ còn vai trò làm chậm đỉnh lũ.

Do đó, kỳ vọng “xây hồ siêu lớn để hết lũ” là không thực tế.

Đánh giá hệ thống bậc thang thủy điện trên sông Ba:

Nhìn khách quan, hệ thống thủy điện trên sông Ba được bố trí hợp lý trong điều kiện địa hình - địa chất và kinh tế, xã hội phù hợp. Hồ nhỏ, phân tầng từ thượng đến hạ du, phù hợp cấu trúc sông dốc, ngắn và hài hòa mục tiêu phát điện - cấp nước - cắt lũ hạn chế. Các hồ Sông Hinh, Krông H’năng, Sông Ba Hạ đã nhiều lần giảm được từ 10-40% đỉnh lũ, góp phần giảm lũ đáng kể trong các trận lũ vừa và lớn. Bão số 14 có lượng nước về hồ Sông Ba Hạ vượt xa mọi trận lũ trong 20-30 năm qua. Khi hồ đầy, đỉnh lũ về liên tục, hồ buộc phải xả để đảm bảo an toàn công trình. Đây là yêu cầu bắt buộc của Quy trình vận hành 878, để tránh mất an toàn đập, tránh thảm họa vỡ hồ - điều còn nguy hiểm hơn nhiều so với ngập lụt.

Thủy điện không gây lũ, nhưng có thể làm thay đổi diễn biến lũ (nếu vận hành không chuẩn), trong đó nếu hồ giữ mực nước quá cao trước mưa lũ sẽ làm mất dung tích đón lũ. Còn nếu xả dồn khi hạ du đang ngập sẽ làm tăng tốc độ ngập. Do đó, yếu tố quan trọng nhất là dự báo - điều hành - phối hợp liên hồ chính xác sẽ giảm tối đa thiệt hại cho vùng hạ lưu công trình.

Có cần xây “hệ thống thoát lũ nhanh ra biển” phía sau hồ Sông Ba Hạ?

Gần đây, một số ý kiến đề xuất xây tuyến “thoát lũ khẩn cấp” từ hồ Sông Ba Hạ ra biển Tuy Hòa. Đây là ý tưởng tốt về mặt mong muốn, nhưng không khả thi về mặt kỹ thuật, kinh tế và an toàn, bởi:

1. Địa hình hạ du bằng phẳng, không đủ độ dốc: Khu vực Tuy Hòa là đồng bằng ven biển, độ dốc trung bình rất nhỏ (<0,5%), không đủ điều kiện để dẫn dòng lũ hàng nghìn m³/s ra biển mà không gây xói mòn, phá hủy công trình.

2. Tuyến kênh sẽ cắt qua khu dân cư, đất sản xuất và hạ tầng: Muốn xây kênh rộng 100-200 m, sâu 5-8 m phải di dời hàng nghìn hộ dân, phá vỡ toàn bộ hạ tầng đô thị và nông nghiệp. Chi phí vượt xa lợi ích.

3. Nguy cơ hình thành “sông mới”, gây thảm họa ngược: Lũ lớn đi vào kênh có thể phá bờ, mở rộng dòng chảy, cuốn trôi khu dân cư. Các chuyên gia thủy lợi khẳng định: Đây là rủi ro không thể chấp nhận.

4. Tỷ lệ hiệu quả - chi phí thấp: Ngay cả khi xây được kênh, nó chỉ có tác dụng trong vài trận lũ cực đoan, trong khi chi phí đầu tư - xã hội là khổng lồ.

Vì vậy, không cần và không nên xây hệ thống thoát lũ nhanh ra biển phía hạ lưu Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ. Giải pháp thay thế hiệu quả hơn nhiều nằm trong nhóm “thoát lũ tự nhiên + cảnh báo sớm + vận hành linh hoạt”.

Gợi ý giải pháp phòng chống lũ có thể tham khảo cho lưu vực sông Ba:

Thực tiễn nhiều quốc gia cho thấy: Không thể chống lũ tuyệt đối, chỉ có thể quản lý rủi ro lũ. Với lưu vực sông Ba, giải pháp hợp lý nhất là mô hình phòng chống lũ đa tầng:

Tầng 1 - Tăng cường dự báo và cảnh báo ngập theo thời gian thực. Để hiện thực hóa giải pháp này cần triển khai ngay:

1. Hệ thống radar thời tiết đặt tại Gia Lai - Đắk Lắk - Phú Yên (cũ).

2. Các trạm đo mưa - mực nước tự động truyền số liệu về trung tâm chỉ huy 5 phút/lần.

3. Mô hình dự báo ngập 6-12 giờ, hiển thị bản đồ ngập theo xã/phường.

4. Tin nhắn cảnh báo cụ thể: “Khu vực A có thể ngập 1,5m sau 2 giờ; người dân chuẩn bị sơ tán” thay vì thông báo “nhà máy sẽ xả lũ X m³/s”.

Một hệ thống cảnh báo tốt sẽ quan trọng hơn nhiều việc tăng dung tích hồ.

Tầng 2 - Tối ưu vận hành các hồ chứa theo dự báo mưa. Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba theo Quyết định 878/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ cần được cập nhật:

1. Cho phép xả trước để đón lũ khi có dự báo mưa lớn.

2. Tạo cơ chế bồi hoàn sản lượng điện (nếu hồ bị yêu cầu hạ mực nước trước mùa bão).

3. Tăng tính phối hợp giữa thượng lưu và hạ lưu để tránh tình trạng hồ trên giữ nước quá lâu.

Tầng 3 - Cải thiện khả năng thoát lũ của hạ du. Để cải thiện hành lang thoát lũ, các hạng mục cần triển khai như sau:

1. Nạo vét dòng chính sông Ba, đặc biệt là đoạn Phú Hòa - Tuy Hòa.

2. Loại bỏ bồi lắng - vật cản dòng chảy, mở rộng khúc cong, xử lý “nút thắt cổ chai”.

3. Quy hoạch vùng thoát lũ: Hạn chế xây dựng mới tại vùng trũng.

4. Xây dựng đê bao bảo vệ những khu dân cư thấp nhất.

Các giải pháp này ít tốn kém hơn so với kênh thoát lũ ra biển, nhưng hiệu quả cao hơn nhiều.

Tầng 4 - Tạo không gian trữ nước tạm thời:

1. Quy hoạch các khu vực trũng, ruộng thấp làm vùng chứa lũ tạm thời.

2. Áp dụng mô hình “thủy lợi tự nhiên”.

3. Bồi hoàn cho nông dân khi ruộng bị ngập theo kế hoạch.

Đây là giải pháp mà châu Âu, Nhật Bản đã áp dụng rất hiệu quả.

Tầng 5 - Giảm thiệt hại bằng việc nâng chuẩn nhà tránh lũ, hạ tầng chống ngập:

1. Xây nhà tránh lũ kiên cố cho cụm dân cư.

2. Nâng nền trường học, trạm y tế vùng trũng.

3. Tập huấn sơ tán theo kịch bản lũ sẽ ngập sâu 1 m -2 m -3 m.

4. Tổ chức lực lượng ứng cứu nhanh chuyên nghiệp tại cấp xã.

Tạm kết:

Thứ nhất: Hệ thống thủy điện trên lưu vực sông Ba hiện tại được bố trí hợp lý về kỹ thuật, phù hợp điều kiện địa hình - địa chất của khu vực miền Trung.

Thứ hai: Không thể xây hồ chứa lớn, hoặc đập thật cao để chống lũ do ràng buộc địa hình và chi phí xã hội khổng lồ.

Thứ ba: Không cần và không nên xây “kênh thoát lũ nhanh ra biển” phía sau Sông Ba Hạ, vì không khả thi và tiềm ẩn rủi ro lớn.

Thứ tư: Giải pháp tối ưu là mô hình phòng lũ đa tầng, gồm:

1. Tăng cường dự báo - cảnh báo sớm.

2. Vận hành hồ chứa linh hoạt theo dự báo.

3. Cải thiện thoát lũ hạ du.

4. Bố trí không gian trữ nước.

5. Củng cố năng lực ứng phó cộng đồng.

Mục tiêu của phương pháp mới không phải “chống lũ tuyệt đối”, mà giảm thiểu thiệt hại xuống mức thấp nhất trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng làm gia tăng các trận mưa cực trị./.

TS. NGUYỄN HUY HOẠCH - HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo: Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba - Quyết định 878/QĐ-TTg ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ.

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động