Từ bão số 14 - Nhìn lại vai trò hệ thống thủy điện và nhu cầu điều chỉnh Quy trình vận hành liên hồ chứa hiện hành
07:08 | 24/11/2025
Những năm gần đây, biến đổi khí hậu đã góp phần làm thay đổi sâu sắc quy luật mưa, lũ và dòng chảy tại Việt Nam. Các hiện tượng thời tiết cực đoan - từ hạn hán lịch sử năm 2023 đến chuỗi siêu bão và mưa lũ kỷ lục 2024-2025 đã tạo ra thách thức chưa từng có đối với công tác vận hành hệ thống thủy điện. Bài viết dưới đây của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam phân tích cách các nhà máy thủy điện và cơ quan điều độ đã thích nghi trong bối cảnh khí hậu biến động mạnh, làm rõ bài học quản trị, công nghệ và phối hợp liên vùng… từ đó đề xuất một số giải pháp cần thực hiện tiếp theo. |
Rạng sáng 19/11/2025, nước trên sông Ba dâng nhanh, cuồn cuộn đổ về vùng hạ du. “Nước lên nhanh quá, chỉ trong vài giờ, sân nhà tôi đã ngập hơn nửa mét” - ông Nguyễn Thành Hòa, xã Hòa Hội (Phú Hòa) kể lại trong lúc đang cùng gia đình dọn dẹp sau lũ. Cùng lúc đó, Công ty Thủy điện Sông Ba Hạ thông báo tăng lưu lượng xả lên tới 16.100 m³/s - mức cao nhất từ khi Nhà máy vận hành, thậm chí vượt cả các trận lũ năm 1993 - mốc mà nhiều người Phú Yên vẫn nhắc đến với nỗi kinh hoàng. Việc xả lũ lớn, các xã vùng trũng ở Phú Hòa, Đông Hòa, Sơn Hòa ngập sâu, giao thông bị chia cắt. Người dân kịp chạy lũ, nhưng nhiều diện tích hoa màu, gia súc, vật dụng gia đình không thể cứu… Dưới đây là tổng hợp, phân tích, nhận định của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam. |
I. Diễn biến mưa lũ tại Trung bộ, Tây Nguyên và Nam bộ:
1. Trung Trung bộ, Nam Trung bộ lũ dâng nhanh và ngập sâu:
Tại Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi đến Khánh Hòa và Lâm Đồng, mưa liên tục 2-3 ngày, với cường độ tăng mạnh từ đêm trước khi bão đổ bộ. Lũ trên các sông đạt mức báo động II, có nơi trên báo động III. Một số sông như: Thu Bồn, Trà Khúc, Kôn và sông Ba có đỉnh lũ vượt trung bình nhiều năm. Khu vực hạ du Đắk Lắk, đặc biệt các xã Phú Hòa, Sơn Hòa, Đông Hòa ngập nhanh. Tại Gia Lai và Quảng Ngãi, nhiều khu dân cư bị chia cắt do nước lũ tràn đường.
2. Tây Nguyên lũ về đột ngột:
Ở Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng, mưa rất lớn khiến mực nước trên các sông Sê San, Srê Pôk dâng nhanh. Đặc biệt các lưu vực nhỏ có độ dốc lớn gây lũ quét và sạt lở. Một số khu vực gần hồ Thủy điện Sê San 4, Sê San 4A và Buôn Kuốp - Buôn Tua Srah chịu ngập cục bộ ở vùng trũng ven sông.
3. Khu vực Đông Nam bộ và thượng nguồn sông Đồng Nai mưa lớn kéo dài:
Tây Ninh, Đồng Nai và Lâm Đồng có mưa to nhiều ngày. Lũ trên sông Đồng Nai, La Ngà và sông Bé dâng cao, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát nhờ hệ thống bậc thang thủy điện lớn (Đồng Nai 2-3-4-5-6, Thác Mơ, Cần Đơn, Srok Phu Miêng…).
Nhìn chung, bão số 14 gây ra một dạng lũ tổng hợp (lũ thượng nguồn dâng nhanh, lũ vùng trung lưu lan rộng và lũ hạ du kéo dài) tạo sức ép lớn cho toàn bộ hệ thống thủy điện khu vực này.
II. Vai trò của hệ thống thủy điện trong cắt, giảm lũ:
Đợt mưa lũ sau cơn bão 14 cho thấy rõ sự khác biệt về khả năng phòng lũ của từng hệ thống hồ chứa bậc thang thủy điện. Một số hồ thủy điện có dung tích phòng lũ khá lớn thì khả năng cắt, giảm lũ đạt hiệu quả cao, còn một số hồ chứa thủy điện không có dung tích chống lũ, chủ yếu phục vụ phát điện là chính, nên hiệu quả chống lũ hạn chế, thậm chí phải xả nước xuống hạ lưu nhà máy thủy điện bằng đúng lưu lượng nước về hồ để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình.
1. Hệ thống thủy điện trên sông Vu Gia - Thu Bồn:
Các hồ chứa nhà máy Thủy điện A Vương và Đăk Mi 4 có dung tích phòng lũ đáng kể, giúp giảm đỉnh lũ trên sông Vu Gia - Thu Bồn từ 10% đến 20% trong giai đoạn đỉnh mưa. Lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn vốn dốc, lũ về nhanh, do đó khả năng cắt lũ chỉ hiệu quả trong khoảng từ 6 đến 12 giờ đầu.
Hệ thống bậc thang thủy điện trên lưu vực vừa qua (tuy đã vận hành theo Quy trình điều phối liên hồ), nhưng bị giới hạn bởi dung tích hồ chứa nhỏ trong khi lượng mưa quá lớn, kéo dài. Hiệu quả giảm lũ có, nhưng không thể “giữ toàn bộ lũ” khi lượng nước về vượt lũ thiết kế. Việc phối hợp liên hồ khá chủ động; không có tình trạng xả bất thường.
2. Hệ thống thủy điện trên sông Ba (Gia Lai - Đắc Lăk):
Trên lưu vực sông Ba có hệ thống bậc thang Thủy điện Ayun Hạ, Krông H’Năng, Sông Ba Hạ, cộng với Sông Hinh (ở nhánh lớn cạnh bên). Dung tích phòng lũ của các hồ thủy điện trên sông Ba rất hạn chế, chỉ phát điện là chủ yếu. Lũ, bão số 14 về nhanh, lượng nước đổ về hồ chứa Thủy điện Sông Ba Hạ vượt quá khả năng giữ, khiến hồ phải xả nước xuống hạ lưu gần bằng lưu lượng nước về. Vì Thủy điện Sông Ba Hạ không phải hồ chuyên chống lũ, buộc phải xả gần bằng lưu lượng về (lúc cao nhất tới 16.100 m³/s), khiến vùng Phú Hòa, Đông Hòa, Sơn Hòa ngập sâu, giao thông bị chia cắt. Mặc dù Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ đã vận hành đúng Quy trình 878/QĐ-TTg, nhưng dung tích hữu ích của hồ nhỏ (chỉ có 165,9 triệu m3), dung tích phòng lũ nhỏ, nên trong điều kiện lũ vượt lịch sử, khả năng giảm lũ gần như bằng 0 ở giai đoạn cuối.
3. Hệ thống thủy điện trên sông Sê San (Quảng Ngãi - Gia Lai):
Các nhà máy Thủy điện Plei Krông, Ialy, Sê San 3, Sê San 4, Sê San 4A trên lưu vực sông Sê San là hệ thống bậc thang thủy điện có dung tích hồ chứa nước lớn nhất Tây Nguyên. Các hồ đã giữ được lượng nước rất lớn trong 1-2 ngày đầu, giúp giảm mạnh đỉnh lũ cho vùng Gia Lai - Quảng Ngãi. Tuy nhiên, khi lượng mưa trên lưu vực đạt đỉnh, mực nước các hồ tiến sát mực nước dâng bình thường và lúc đó phải điều tiết xả lũ. Hiệu quả cắt lũ của các hồ thủy điện này rất tốt, đặc biệt ở đầu đợt mưa. Quy trình vận hành tương đối hợp lý, nhưng cần cập nhật theo biến động khí hậu.
4. Hệ thống thủy điện trên sông Srê Pôk (Đắk Lắk - Lâm Đồng):
Hồ chứa Thủy điện Buôn Tua Srah có dung tích hữu ích lớn nhất, chủ động giữ lũ tương đối tốt. Riêng hồ Thủy điện Buôn Kuốp và Srêpôk 3-4 là các hồ điều tiết ngày, dung tích nhỏ, nên khả năng cắt lũ không nhiều. Mưa, bão số 14 gây ngập nhanh vùng trũng ven sông, nhưng không gây lũ lớn kéo dài nhờ điều tiết hợp lý. Trong cơn lũ vừa qua, hiệu quả phòng lũ khá, nhưng phụ thuộc chủ yếu vào một hồ lớn là Thủy điện Buôn Tua Srah. Các hồ thủy điện ở các bậc thang dưới gần như không có chức năng phòng lũ.
5. Hệ thống thủy điện trên Đồng Nai (bao gồm hệ thống Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi ở thượng nguồn La Ngà):
Trên lưu vực sông Đồng Nai có các hồ thủy điện lớn như Đồng Nai 3, Đồng Nai 4, Đồng Nai 2, Đồng Nai 5, Đại Ninh, Trị An, Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi (liên hồ quan trọng trên sông La Ngà và Đồng Nai thượng). Đây là hệ thống bậc thang thủy điện có dung tích phòng lũ lớn nhất khu vực miền Nam.
Nhánh Đồng Nai thượng gồm các hồ lớn như Đồng Nai 3 và 4 đã giữ lại lượng nước đáng kể, làm giảm xả lũ về hồ Trị An.
Nhánh La Ngà bao gồm thủy điện Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi. Đây là cụm công trình rất quan trọng đối với cả thượng lưu Đồng Nai và tỉnh Lâm Đồng. Thủy điện Đa Nhim chủ yếu phát điện và điều tiết theo chu kỳ ngày - đêm. Trong mưa lũ, hồ có khả năng giữ nước tốt. Thủy điện Hàm Thuận (dung tích 695 triệu m³) là hồ chứa lớn, có khả năng giảm mạnh đỉnh lũ cho hạ du La Ngà. Tuy nhiên, khi mưa thượng nguồn quá lớn, Hàm Thuận đã phải xả điều tiết. Còn với Thủy điện Đa Mi nằm phía dưới, dung tích nhỏ, điều tiết nhanh.
Hồ chứa Thủy điện Trị An, Thác Mơ đóng vai trò cực kỳ quan trọng, giữ lại lượng nước mưa khổng lồ đổ về từ Lâm Đồng và Đồng Nai. Vì vậy lũ trên sông Đồng Nai và La Ngà được cắt giảm đáng kể; hạ du gần như không ngập sâu.
Trong đợt mưa lũ kỷ lục vừa qua, hệ thống hồ chứa bậc thang thủy điện trên sông Đồng Nai đã vận hành tốt, chủ động và hiệu quả, giữ lại một phần rất đáng kể dòng chảy, làm chậm thời điểm nước lũ về Đồng Nai và giảm hiện tượng “lũ chồng lũ” với triều cường vùng hạ du. Tuy nhiên, điều phối vận hành liên hồ trên lưu vực sông Đồng Nai còn chưa đồng bộ, nhất là khi mưa lớn kéo dài liên tục trong toàn vùng Nam Tây Nguyên - Đông Nam bộ. Song đây vẫn là mô hình vận hành liên hồ phát huy hiệu quả cao nhất trong cơn bão số 14.
III. Quy trình vận hành liên hồ chứa đã hợp lý chưa?
Nhiều quy trình liên hồ chứa đang được áp dụng theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ (ví dụ 878/QĐ-TTg đối với sông Ba; 1865/QĐ-TTg đối với Vu Gia - Thu Bồn; Quyết định số 471/QĐ-TTg đối với sông Đồng Nai…). Tuy nhiên, biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan khiến nhiều quy định trở nên lạc hậu.
Thứ nhất: Những điểm hợp lý:
1. Quy trình đã phân cấp rõ trách nhiệm và điều phối giữa trung ương - địa phương - các nhà máy thủy điện.
2. Quy định mực nước trước lũ, mực nước dâng bình thường và trách nhiệm xả nước tương đối minh bạch.
3. Yêu cầu thông báo xả lũ giúp nâng cao trách nhiệm quản lý.
Thứ hai: Những điểm còn bất cập nổi bật:
1. Dung tích phòng lũ nhiều hồ quá nhỏ, nhưng quy trình vẫn áp cùng cơ chế như hồ lớn: Lượng mưa thực tế đã vượt xa các chuỗi dữ liệu thiết kế.
2. Công nghệ dự báo lũ còn yếu: Dự báo mưa 24 giờ sai lệch lớn dẫn đến khó điều tiết. Chưa có hệ thống cảnh báo đa tầng (loa, còi, ứng dụng, Zalo/SMS chủ động).
3. Quy trình vận hành liên hồ chưa linh hoạt trong điều hành: Một số quy trình quy định mức cứng, không cho phép dư địa linh hoạt khi thời tiết biến động cực đoan.
4. Lưu vực Đồng Nai còn thiếu cập nhật cho cụm Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi theo mô hình “liên hồ ba tầng”.
5. Phối hợp giữa chủ hồ - địa phương - Ban Chỉ đạo trung ương đôi lúc chưa nhịp nhàng: Thời gian điều hành - truyền tin chưa kịp với tốc độ lũ lên.
Một số nhận xét sự hợp lý về Quy trình vận hành liên hồ chứa các lưu vực sông:
1. Đối với lưu vực sông Đồng Nai: Quy trình khá phù hợp và phát huy hiệu quả.
2. Đối với lưu vực sông Sê San - Srê Pok: Chấp nhận được, nhưng cần cập nhật theo kịch bản mưa cực đoan.
3. Đối với lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và đặc biệt lưu vực sông Ba: Quy trình không còn phù hợp với thực tế biến đổi khí hậu, cần có sự điều chỉnh lớn.
IV. Kiến nghị điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa:
Từ thực tế công tác vận hành điều tiết lũ của hệ thống bậc thang thủy điện trên các lưu vực sông (từ cơn bão số 14) đã cho thấy việc cần thiết phải bổ sung giải pháp vận hành thích ứng với sự thay đổi cực đoan của thời tiết trong thời gian tới như sau:
1. Cập nhật lại toàn bộ dữ liệu khí hậu - thủy văn:
- Sử dụng chuỗi số liệu 2010-2025 và mô hình mưa cực trị mới.
- Tính toán lại mô phỏng xác suất lũ P=1%, 0,5%, 0,1%.
2. Mở rộng dung tích phòng lũ, hoặc vận hành linh hoạt:
- Giảm mực nước trước lũ thêm 1-2 m tại các hồ có dung tích lớn như A Vương, Hàm Thuận, Đồng Nai 3.
- Cho phép vận hành linh hoạt khi dự báo mưa cực đoan.
3. Cập nhật riêng mô hình liên hồ Đa Nhim - Hàm Thuận - Đa Mi:
Bổ sung vai trò “ba tầng” trong điều tiết lũ cho lưu vực La Ngà và cập nhật chế độ xả trước lũ khi mưa vượt ngưỡng.
4. Xây dựng hệ thống cảnh báo lũ hiện đại:
- Ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào dự báo dòng chảy.
- Xây dựng bản đồ ngập theo thời gian thực.
- Cảnh báo chủ động trên Zalo, Viber, SMS, app tỉnh, loa thông minh.
5. Tích hợp mục tiêu phát điện - chống lũ - môi trường:
Sau lũ, điều tiết lại nguồn nước tối ưu cho phát điện và bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu môi trường theo quy định.
6. Tăng cường năng lực giám sát cộng đồng:
- Công khai thời điểm xả lũ, tổng lượng xả theo thời gian thực.
- Lắp camera giám sát tại các cửa xả, truyền trực tiếp tới chính quyền địa phương.
- Công bố bản đồ ngập lụt theo thời gian thực.
V. Kết luận:
Mưa lũ sau cơn bão số 14 cho thấy sự cực đoan của thời tiết ngày nay không còn phù hợp với các bộ quy trình vận hành liên hồ chứa được xây dựng cách đây 5-10 năm. Thực tế vận hành qua các năm cũng cho thấy hệ thống bậc thang thủy điện có hồ chứa lớn, điều tiết nhiều năm trên lưu vực sông Đồng Nai, sông Sê San và sông Srêpôk đã phát huy tốt vai trò điều tiết lũ.
Riêng lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn và nhất là lưu vực sông Ba tiếp tục bộc lộ hạn chế trong vai trò cắt lũ (do không có hệ thống hồ chứa nước lớn, điều tiết dài hạn).
Quy trình vận hành liên hồ chứa hiện hành nhìn chung phù hợp, nhưng trước biến đổi khí hậu, nhiều quy định đã không còn theo kịp thực tế. Bài học lớn nhất là phòng chống lũ không thể chỉ dựa vào hệ thống các hồ chứa thủy điện, nhất là khu vực miền Trung - nơi có độ dốc lưu vực sông rất lớn, nhưng không thể xây dựng các hồ chứa nước đủ lớn để cắt, giảm lũ, mà phải dựa vào một hệ thống giải pháp tổng hợp. Cụ thể là:
1. Quy hoạch sử dụng nước lưu vực hợp lý, nhằm giảm thiểu tối đa, hoặc làm chậm các cơn lũ lớn, nguy hiểm.
2. Nghiên cứu xây dựng hồ chứa nước phòng lũ chuyên dụng.
3. Hoàn chỉnh hệ thống cảnh báo sớm, hiện đại và hiệu quả.
4. Đầu tư công nghệ dự báo hiện đại, áp dụng cho tất cả các lưu vực sông.
5. Điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa linh hoạt với dữ liệu theo thời gian thực.
Để bảo vệ hạ du, đảm bảo an toàn công trình, duy trì hiệu quả phát điện và thích ứng với biến đổi khí hậu, chúng ta cần một “phiên bản mới” của các Quy trình vận hành liên hồ chứa linh hoạt hơn, hiện đại hơn và gắn với công nghệ cảnh báo sớm./.
TS. NGUYỄN HUY HOẠCH - HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo:
1. Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba: Quyết định số 878/QĐ-TTg ngày 18 tháng 07 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 1865/QĐ-TTg 23-12-2019 đối với lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn; Quyết định số 1612/QĐ-TTg ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với lưu vực sông Srêpôk, Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 13/12/2018 đối với lưu vực sông Sê San; Quyết định số 471/QĐ-TTg ngày 24 tháng 03 năm 2016 đối với lưu vực sông Đồng Nai.
2. TS. Nguyễn Huy Hoạch: Sự thích nghi trong vận hành thủy điện - Bài học từ những mùa mưa bão lịch sử ở Việt Nam. NangluongVietNam online 06:21 | 17/11/2025.
