Khuyến nghị những việc cần làm để có thể khởi công dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận
09:18 | 13/11/2025
Để giúp các đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khóa XV cập nhật một số thông tin tham khảo trong quá trình thảo luận, góp ý xây dựng dự án Luật, Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến lĩnh vực điện lực, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam vừa hoàn thiện Báo cáo về “Nhận diện rủi ro, thách thức và gợi ý giải pháp chính sách phát triển ngành điện của Việt Nam” - tháng 10/2025. Dưới đây là nội dung chính của Báo cáo. |
I. Mở đầu:
Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Kết luận số 203-KL/TW ngày 4/11/2025 về tiếp tục tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện ở mức cao nhất mục tiêu tăng trưởng năm 2025, tạo đà vững chắc cho tăng trưởng bền vững ở mức 2 con số trong giai đoạn tới và tổng kết Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 1/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII.
Trong đó, Bộ Chính trị yêu cầu tập trung chỉ đạo hoàn tất các bước chuẩn bị cho: Khởi công một số dự án quan trọng quốc gia trong các lĩnh vực giao thông, năng lượng, hạ tầng và các dự án sử dụng vốn đầu tư công lớn (dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông; dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận; dự án đường sắt quốc tế...) từ đầu năm 2026.
Là cơ quan báo chí chuyên ngành năng lượng, do đó, bài báo chỉ đề cập tới những việc cần làm để có thể khởi công dự án điện hạt nhân Ninh Thuận theo Kết luận của Bộ Chính trị.
II. Hồ sơ địa điểm và Báo cáo khả thi dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1:
Năm 2014, Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân (ATBXHN) đã nhận được Hồ sơ địa điểm Ninh Thuận 1 và Báo cáo khả thi dự án kèm theo thiết kế cơ sở nhà máy điện hạt nhân AES-2006 (VVER-1200).
Việt Nam đã có Luật Năng lượng Nguyên tử số 94/2025/QH15 (Luật số 94) quy định về các giai đoạn vòng đời nhà máy điện hạt nhân. Về địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân, Điều 43 Luật số 94 quy định:
1. “Chủ đầu tư có trách nhiệm khảo sát, đánh giá chi tiết địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân”.
2. “Chủ đầu tư phải lập hồ sơ đề nghị phê duyệt địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân”.
3. “Thủ tướng Chính phủ Việt Nam xem xét, phê duyệt địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Việc phê duyệt địa điểm được thực hiện trước hoặc đồng thời với việc quyết định đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân”.
Nghị định số 70/2010/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng Nguyên tử về nhà máy điện hạt nhân, giao Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành các quy định liên quan đến an toàn nhà máy điện hạt nhân và thẩm định an toàn trong các giai đoạn của dự án nhà máy điện hạt nhân.
Luật số 94 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026 và cùng với đó là Nghị định mới thay thế cho Nghị định số 70/2010/NĐ-CP. Trước mắt, công tác chuẩn bị triển khai dự án điện hạt nhân phải được thực hiện theo quy định của Nghị định số 70/2010/NĐ-CP. Các bên có liên quan báo cáo Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện các cơ chế đặc thù cần thiết.
Hiện nay, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang trao đổi ý kiến với Cục ATBXHN và báo cáo Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam về việc tổ chức đọc Hồ sơ địa điểm Ninh Thuận 1.
Để đẩy nhanh tiến độ, EVN đề nghị việc thẩm định Hồ sơ địa điểm Ninh Thuận 1 được thực hiện theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Rà soát Hồ sơ địa điểm, kết luận sơ bộ về yêu cầu bổ sung khảo sát, đánh giá liên quan đến các tiêu chí loại trừ tại địa điểm. Trong trường hợp chưa phát hiện dấu hiệu có các tiêu chí loại trừ tại địa điểm, thì thông báo cho phép chủ đầu tư và nhà thầu thực hiện khảo sát kỹ thuật tại địa điểm.
Giai đoạn 2: Hoàn thiện hồ sơ đề nghị phê duyệt địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân, trình thẩm định và báo cáo kết quả thẩm định để Thủ tướng Chính phủ Việt Nam xem xét, phê duyệt địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Theo hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và Thông tư số 28/2011/TT-BKHCN Quy định về yêu cầu an toàn hạt nhân đối với địa điểm nhà máy điện hạt nhân, giai đoạn 2 phải thực hiện ghi đo liên tục ít nhất 12 tháng số liệu địa chấn, khí tượng, thủy văn phục vụ cho việc đánh giá an toàn địa điểm nhà máy điện hạt nhân.
Đồng thời, EVN cũng đề xuất Cục ATBXHN sử dụng thiết kế cơ sở thay cho thiết kế sơ bộ ngay ở giai đoạn thẩm định Hồ sơ địa điểm, do nhà thầu và chủ đầu tư đã nộp thiết kế cơ sở (mà không nộp thiết kế sơ bộ). Cục ATBXHN cũng có thể sử dụng kết quả Báo cáo của IAEA đánh giá công nghệ (Generic Reactor Safety Review - GRSR) đối với AES-2006 (VVER-1200) để đẩy nhanh tiến độ đánh giá, thẩm định thiết kế có liên quan.
Lãnh đạo Đảng và Chính phủ luôn nhấn mạnh: “Không đánh đổi an toàn lấy tiến độ triển khai dự án”. Như vậy có nghĩa là Thủ tướng Chính phủ không thể xem xét, phê duyệt địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân trước cuối năm 2026 - đồng nghĩa với việc không thể quyết định đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân trước thời điểm đó.
III. Nội địa hóa các tiêu chuẩn của IAEA phục vụ cho đánh giá an toàn địa điểm và thiết kế cơ sở nhà máy điện hạt nhân:
Việc nội địa hóa tiêu chuẩn không chỉ là dịch thuật, mà là quá trình “Việt Nam hóa” toàn diện các yêu cầu an toàn, bảo đảm đáp ứng đầy đủ mô hình pháp quy quốc tế. Để thực hiện điều này, Việt Nam cần một chiến lược nhiều tầng:
1. Hoàn thiện khung pháp lý theo Luật số 94:
- Rà soát Điều 43, Điều 44 Luật số 94 và hệ thống văn bản dưới luật để đảm bảo mọi quy định liên quan đến địa điểm và thiết kế đều có căn cứ pháp lý rõ ràng.
- Xây dựng quy trình thẩm định theo cấu trúc tương tự như của Rostechnadzor (LB Nga), STUK (Phần Lan), hoặc NRC (Mỹ).
- Chuẩn hóa toàn bộ quy trình nộp - nhận - đánh giá hồ sơ địa điểm và thiết kế theo hướng dẫn của IAEA.
2. Đồng bộ hóa khung tiêu chuẩn với thông lệ quốc tế:
Việt Nam cần ban hành các nhóm tiêu chuẩn sau:
- Bộ tiêu chuẩn nền tảng: Theo các tiêu chuẩn an toàn (GSR và SSR) của IAEA.
- Nhóm tiêu chuẩn đánh giá tự nhiên học địa điểm: Động đất, trượt lở, sóng thần, bão lớn, gió cực đoan, mưa cực trị.
- Nhóm tiêu chuẩn về các nguy cơ do con người: Sân bay, đường hàng hải, nhà máy hóa chất, sự kiện nổ ngoài địa điểm.
- Nhóm tiêu chuẩn thiết kế: Tiêu chuẩn cấp an toàn, thiết kế hệ thống an toàn thụ động, yêu cầu hệ thống làm mát lõi lò, thiết kế vùng chứa (containment).
- Nhóm tiêu chuẩn liên quan đến phân tích an toàn: Đánh giá xác suất theo phân mức, phân tích ứng xử lõi lò, sự cố mất nguồn điện (SBO), phân tích sự cố đa hiện tượng (multi-physics).
Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia phải đảm bảo các nguyên tắc chính sau đây:
- Tương thích đầy đủ với các tiêu chuẩn an toàn quốc tế.
- Cụ thể hóa theo điều kiện địa lý - khí hậu - pháp lý của Việt Nam.
- Bảo đảm minh bạch, nhất quán trong áp dụng giữa các giai đoạn: Lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành và tháo dỡ.
Hiện có hơn 250 tiêu chuẩn trong bộ tiêu chuẩn của IAEA liên quan trực tiếp đến địa điểm và thiết kế cơ sở. Tuy nhiên, rất nhiều các tiêu chuẩn trong số đó chưa cần nội địa hóa ngay. Cơ quan pháp quy, tổ chức hỗ trợ kỹ thuật và chủ đầu tư phối hợp lựa chọn các văn bản pháp quy của Việt Nam cần hoàn thiện ngay và các tiêu chuẩn cần xây dựng (khoảng 25 văn bản là khả thi cho năm đầu tiên của Việt Nam).
Việc dịch thuật, hiệu chỉnh kỹ thuật và chuẩn hóa thuật ngữ cần tuân theo khuyến nghị của IAEA về kiểm soát chất lượng tài liệu pháp quy. Rà soát 5 tiêu chuẩn về địa điểm mà Việt Nam đã ban hành:
- TCVN 9641:2013, An toàn hạt nhân - Các sự kiện bên ngoài do con người gây ra trong đánh giá dịa điểm nhà máy điện hạt nhân.
- TCVN 9642:2013, An toàn hạt nhân - Khảo sát, đánh giá khả năng phát tán chất phóng xạ trong không khí và nước - Xem xét phân bố dân cư trong đánh giá dịa điểm nhà máy điện hạt nhân.
- TCVN 9643:2013, An toàn hạt nhân - Các vấn đề địa kỹ thuật trong đánh giá địa điểm và nền móng của nhà máy điện hạt nhân.
- TCVN 9644:2013, An toàn hạt nhân - Khảo sát, đánh giá độ nguy hiểm động đất đối với nhà máy điện hạt nhân.
- TCVN 9645:2013, An toàn hạt nhân - Khảo sát, đánh giá khí tượng, thủy văn trong đánh giá địa điểm nhà máy điện hạt nhân.
Xem xét, rà soát 11 tiêu chuẩn về thiết kế Việt Nam đã thảo luận kỹ trong tiểu ban kỹ thuật dự kiến ban hành năm 2015:
- TCVN 11000:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Phần mềm dùng cho các hệ thống quan trọng về an toàn.
- TCVN 11001:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Hệ thống đo và điều khiển quan trọng về an toàn.
- TCVN 11002:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Thiết kế hệ thống thao tác và lưu giữ nhiên liệu.
- TCVN 11003:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Thiết kế và đánh giá xác nhận kháng chấn.
- TCVN 11004:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Phòng chống cháy nổ bên trong trong thiết kế nhà máy.
- TCVN 11005:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Thiết kế hệ thống điện khẩn cấp.
- TCVN 11006:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Thiết kế hệ thống làm mát và các hệ thống liên quan.
- TCVN 11007:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Thiết kế hệ thống boong-ke lò.
- TCVN 11008:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Bảo vệ chống các nguy hại bên trong không bao gồm cháy nổ.
- TCVN 11009:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Thiết kế vùng hoạt lò phản ứng.
- TCVN 11010:2015, An toàn hạt nhân - nhà máy điện hạt nhân - Các khía cạnh bảo vệ bức xạ trong thiết kế.
3. Sử dụng thiết kế AES-2006 (VVER-1200) và tài liệu đánh giá của IAEA:
Do Việt Nam đã có bộ Hồ sơ thiết kế cơ sở VVER-1200, có thể tận dụng:
- Báo cáo của IAEA đánh giá công nghệ (GRSR) đối với AES-2006 (VVER-1200).
- Các kết quả đánh giá của các quốc gia đã phê duyệt VVER-1200 (LB Nga, Belarus, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary).
- So sánh đối chiếu yêu cầu của Việt Nam và các quốc gia khác để rút ngắn thời gian đánh giá.
Có thể bổ sung các tiêu chuẩn áp dụng riêng cho công nghệ VVER-1200, như:
- Cập nhật yêu cầu về các hệ thống an toàn thụ động (passive systems) của VVER-1200: Hệ thống trao đổi nhiệt thụ động, hệ thống làm mát khẩn cấp.
- Chuẩn hóa yêu cầu kiểm định đối với vật liệu thép nồi hơi và bình chịu áp lực.
- Bổ sung yêu cầu tính toán trường hợp sự cố hiếm gặp: Sự cố va chạm tàu bay, động đất cực đại có chu kỳ lặp 10.000 năm.
4. Tăng cường năng lực tư vấn - phản biện khoa học:
- Thành lập nhóm (khoảng hơn 60 chuyên gia) hỗ trợ tư vấn - phản biện.
- Kết nối 5 nhóm chuyên môn địa chất - khí tượng - vật liệu - thủy nhiệt - hạt nhân và các chuyên môn khác.
- Phát triển mạng lưới chuyên gia trẻ kế cận, tham gia trực tiếp quá trình nội địa hóa.
IV. Công tác chuẩn bị cơ sở hạ tầng phục vụ xây dựng nhà máy điện hạt nhân:
Việc phát triển hạ tầng không chỉ là chuẩn bị mặt bằng, mà là xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp hạt nhân hoàn chỉnh.
1. Năng lực quản lý dự án và nhà thầu:
- Bảo đảm năng lực, cơ chế hoạt động của Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân quốc gia, có quyền điều phối như một Bộ.
- Hoàn thiện hệ thống đánh giá năng lực nhà thầu theo chuẩn OECD/NEA.
- Xây dựng hệ thống QA/QC cấp quốc gia.
- Đánh giá năng lực các nhà thầu Việt Nam cho nội địa hóa thiết bị và xây dựng dân dụng.
- Thiết lập cơ sở dữ liệu kỹ thuật quốc gia để lưu trữ hồ sơ thẩm định, hồ sơ vận hành, báo cáo phân tích an toàn.
- Ứng dụng hệ thống mô phỏng kỹ thuật số (Digital Twin) phục vụ quản lý thiết kế - thi công.
2. Hạ tầng pháp lý và năng lực cơ quan pháp quy:
- Kiện toàn tổ chức của Cục ATBXHN để đáp ứng khối lượng thẩm định lớn.
- Ban hành bộ hướng dẫn kỹ thuật tạm thời trong giai đoạn chuyển tiếp giữa Nghị định 70/2010/NĐ-CP và Nghị định mới theo Luật số 94.
- Thiết lập quy trình đánh giá theo cấu trúc chuẩn hóa tương tự như của các cơ quan pháp quy quốc tế (Rostechnadzor, STUK hoặc NRC).
3. Hạ tầng xây dựng - dân dụng:
- Khảo sát lại toàn bộ địa chất công trình bằng khoan sâu, thử tải nền móng, phân tích lún.
- Xây dựng đê chắn sóng chống được bão cấp 14-15, hệ thống chống xói lở, đảm bảo các yêu cầu phòng chống động đất, lũ lụt.
- Hình thành khu tổng kho vật tư, bãi tập kết thiết bị nặng, trung tâm điều phối vận chuyển; xây dựng khu vực lưu trữ thiết bị tạm thời, hệ thống cấp điện phụ trợ, cấp nước.
- Hoàn thiện kết nối giao thông phục vụ vận chuyển thiết bị siêu trường - siêu trọng (lò phản ứng, máy phát, thiết bị áp lực).
4. Hạ tầng công nghiệp - chuỗi cung ứng - năng lực kiểm định:
- Xây dựng các nhà máy phụ trợ sản xuất vật liệu hạt nhân: Thép hợp kim, bê tông cường độ cao, vật liệu giảm chấn động đất.
- Đưa các doanh nghiệp Việt Nam vào chương trình nội địa hóa 25-30% khối lượng thiết bị phi hạt nhân, tăng cường tối đa năng lực tham gia xây lắp.
- Thành lập trung tâm thử nghiệm thiết bị cơ điện, đường ống - van theo chuẩn quốc tế.
- Xây dựng trung tâm thử nghiệm an toàn thiết bị hạt nhân theo chuẩn quốc tế.
- Phát triển các phòng thí nghiệm chuyên về vật liệu, kiểm định mối hàn, kiểm định ứng suất và phân tích phổ bức xạ.
5. Hệ thống quan trắc và an toàn:
- Tăng gấp đôi số lượng trạm quan trắc tự động.
- Xây dựng bản đồ rủi ro khí tượng - thủy văn dài hạn (100 năm).
- Thiết lập trung tâm dữ liệu môi trường lớn nhất khu vực Nam Trung bộ.
- Nâng cấp mạng lưới quan trắc địa chấn quốc gia và bổ sung trạm đo tại khu vực địa điểm.
6. Nguồn nhân lực: Đào tạo - huấn luyện - chuyển giao:
- Đào tạo tối thiểu 2.000-3.000 kỹ sư và chuyên gia vận hành trong giai đoạn 2025-2035.
- Ký kết hợp tác đào tạo với LB Nga, Nhật Bản, Hungary, Hàn Quốc, Pháp và IAEA.
- Đào tạo đội ngũ thanh sát viên pháp quy có trình độ tương đương tiêu chuẩn của IAEA.
V. Nhận xét và kết luận:
Từ các phân tích nêu trên, có thể thấy rằng: Việc khởi công dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận không chỉ phụ thuộc vào quy trình phê duyệt địa điểm, mà còn phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của cả hệ thống với 5 mục tiêu then chốt:
1. Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn theo IAEA, bao phủ toàn bộ chuỗi địa điểm - thiết kế - phân tích an toàn - xây dựng.
2. Tăng cường năng lực quản lý của cơ quan pháp quy, bảo đảm mô hình vận hành độc lập theo tiêu chuẩn quốc tế.
3. Phát triển hệ sinh thái công nghiệp hạt nhân, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.
4. Bảo đảm nhân lực đủ sâu, rộng: Pháp quy, vận hành, nghiên cứu, quản lý dự án.
5. Thực hiện chương trình truyền thông - tham vấn cộng đồng minh bạch và chuyên nghiệp.
Mặc dù việc phê duyệt địa điểm không thể hoàn tất trước cuối năm 2026, Việt Nam hoàn toàn có thể chuẩn bị song song hàng loạt công việc để rút ngắn thời gian triển khai sau khi địa điểm được phê duyệt, thậm chí ngay sau khi hoàn thành giai đoạn 1 khảo sát, đánh giá và thẩm định địa điểm (nêu ở Mục II). Đây là thực tiễn thành công của nhiều quốc gia mới phát triển điện hạt nhân như UAE, Belarus và Bangladesh.
Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam đề xuất khởi công dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận là ngày đồng loạt ra quân của các bên liên quan, cam kết xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp hạt nhân hoàn chỉnh với 6 hạng mục quan trọng (nêu tại Mục IV và 5 mục tiêu then chốt ở trên).
Điện hạt nhân không chỉ giải quyết nhu cầu điện, mà còn tạo động lực phát triển công nghiệp vật liệu, cơ khí chế tạo, tự động hóa, công nghệ cao. Nếu chuẩn bị đúng hướng và đúng tiêu chuẩn quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành quốc gia sở hữu nhà máy điện hạt nhân an toàn, hiện đại vào thập niên 2030-2040./.
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
