RSS Feed for Năng lượng Việt Nam trong lộ trình đổi mới tổng thể | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ năm 28/03/2024 22:20
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Năng lượng Việt Nam trong lộ trình đổi mới tổng thể

 - Tạp chí Năng lượng Việt Nam vừa thực hiện cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh về những vấn đề lớn, quan trọng, cấp bách về phát triển năng lượng Việt Nam trong giai đoạn trước mắt, cũng như tương lai tới. Bộ trưởng đã phân tích khá toàn diện về vấn đề thực thi lộ trình thị trường điện cạnh tranh; phương án nguồn điện thay thế điện hạt nhân Ninh Thuận; việc quản lý, xem xét, phê duyệt các dự án năng lượng tái tạo; vấn đề quy hoạch các phân ngành (điện, than, dầu - khí); cơ sở luận chứng, tính toán sử dụng khí hóa lỏng (LNG) cho phát điện; và hình thức đầu tư BOT trong ngành năng lượng Việt Nam...

Một số ý kiến về bản Dự thảo mới Luật Quy hoạch
Hướng tới thị trường điện ASEAN hợp nhất
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Tạm kết)
Phản đối Việt Nam phát triển nhiệt điện than là một sai lầm [Tạm kết]
Chưa thể thay nhiệt điện than bằng phong điện [Tạm kết]

Năng lượng Việt Nam: Trong năm 2016 và 2017, Bộ Công Thương đã chỉ đạo triển khai vận hành thị trường bán buôn điện cạnh tranh thí điểm. Xin Bộ trưởng cho biết một số kết quả, những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc trong công tác này và triển vọng của việc thực thi lộ trình thị trường bán buôn điện cạnh tranh hoàn chỉnh?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Thực hiện Quyết định số 63/2013/QĐ-TTg ngày 8/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về lộ trình, các điều kiện và cơ cấu ngành nghề điện để hình thành và phát triển các cấp độ Thị trường điện lực tại Việt Nam, Bộ Công Thương đã đề ra kế hoạch từng bước triển khai Thị trường bán buôn điện cạnh tranh (VWEM) phù hợp với điều kiện và năng lực của các đơn vị trong từng giai đoạn.

Bước 1: Thí điểm mô phỏng trên giấy: Bộ Công Thương đã chỉ đạo các đơn vị thực hiện trong các năm 2016 và 2017.

Bước 2: Thí điểm thanh toán thật thực hiện trong năm 2018. Và,

Bước 3: Vận hành chính thức năm 2019.

Trong hai năm vận hành VWEM thí điểm trên giấy, 5 tổng công ty điện lực (miền Bắc, miền Nam, miền Trung, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) đã được phân bổ hợp đồng của 17 nhà máy điện để thực hiện tính toán, mô phỏng thanh toán theo cơ chế thị trường. Công tác thí điểm năm 2016 và năm 2017 đã đạt được một số kết quả quan trọng như: năng lực của các tổng công ty điện lực được nâng cao trong các lĩnh vực tính toán thanh toán thị trường và hợp đồng, kiến thức về hợp đồng mua bán điện và quản lý rủi ro trong thị trường điện, dự báo phụ tải; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cơ bản được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu vận hành và thanh toán trong thị trường điện.

Theo đánh giá tổng thể của chúng tôi thì cơ bản chúng ta đã sẵn sàng chuyển từ việc vận hành Thị trường bán buôn điện cạnh tranh thí điểm trên giấy sang thí điểm thanh toán thật trong năm 2018 (cho phép 5 tổng công ty điện lực tiếp tục thanh toán hợp đồng với một số nhà máy điện và thanh toán một phần điện năng theo giá thị trường điện giao ngay). Theo đó, bắt đầu từ năm 2018, thị trường điện Việt Nam chuyển từ thị trường một đơn vị mua buôn duy nhất sang thị trường nhiều đơn vị mua buôn điện.

Trong quá trình vận hành Thị trường bán buôn điện cạnh tranh thí điểm, chúng tôi sẽ liên tục đánh giá, rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho việc vận hành Thị trường bán buôn điện cạnh tranh hoàn chỉnh từ năm 2019 theo kế hoạch.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh.

Năng lượng Việt Nam: Theo đề án Quy hoạch điện VII (hiệu chỉnh) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đầu năm 2016, thì trong cơ cấu nguồn điện nước ta đến năm 2030 có hai nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận (tổng công suất 4.600 MW, sản lượng điện 32 tỷ kWh). Tuy nhiên, cuối năm 2016, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết dừng xây dựng các dự án điện hạt nhân này. Vậy, chủ trương của Bộ Công Thương về việc nghiên cứu xác định các phương án nguồn điện thay thế như thế nào?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Việc tính toán cân đối cung cầu điện năng của Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) được Bộ Công Thương thường xuyên thực hiện để đưa ra những khuyến nghị nhằm đảm bảo an toàn cung cấp điện cho quốc gia. Từ thời điểm phê duyệt Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) tới nay đã có nhiều thay đổi: dừng xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, bổ sung các Nhà máy điện khí Nhơn Trạch 3 và 4, Nhiệt điện An Khánh, bổ sung đường dây 500kV Vũng Áng - Dốc Sỏi - Pleiku 2. Một số tỉnh đề xuất xây dựng thêm các nhà máy nhiệt điện như: Quảng Trị 2, Phong Điền (Thừa Thiên Huế). Nhiều tỉnh đề xuất khả năng phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió) và có khả năng tăng thêm nhập khẩu điện từ các nước láng giềng…

Các kịch bản đưa vào tính toán như sau:

Một là: Tăng khả năng nhập khẩu thủy điện lên tới 5.000 MW từ các nước láng giềng và phát triển nguồn năng lượng tái tạo để thay thế điện hạt nhân.

Hai là: Xây dựng thêm các nhà máy máy nhiệt điện than theo đề xuất của các tỉnh và phát triển nguồn năng lượng tái tạo để thay thế điện hạt nhân.

Còn trong giai đoạn dài hạn tới năm 2030, một số giải pháp cần thực hiện như sau:

Thứ nhất: Về xây dựng các nhà máy điện: Thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo vệ môi trường trong đầu tư, vận hành nhà máy nhiệt điện than. Đẩy mạnh thông tin, truyền thông tới nhân dân; tạo điều kiện cho nhân dân và các cộng đồng xã hội giám sát quá trình vận hành nhà máy nhiệt điện để người dân hiểu và đồng thuận với việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện đốt than. Xây dựng và vận hành các nhà máy nhiệt điện than công nghệ trên siêu tới hạn.

Tiếp tục tìm kiếm các vị trí, địa điểm để xây dựng nhà máy nhiệt điện than, nhiệt điện sử dụng LNG, đặc biệt tại khu vực Bắc bộ.

Khuyến khích phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo. Song song với đó, cần thực hiện các nghiên cứu về ảnh hưởng của nguồn điện tái tạo với quy mô lớn đối với hệ thống điện; vấn đề nguồn điện thay thế khi nguồn năng lượng tái tạo dừng phát…

Thứ hai: Về nhập khẩu điện: Nhanh chóng tìm kiếm và xúc tiến đàm phán/đầu tư các nguồn điện tại Lào để nhập khẩu về Việt Nam, đảm bảo quy mô nhập khẩu điện từ Lào đến năm 2025 khoảng 3.000 MW, đến năm 2030 khoảng 5.000 MW.

Xây dựng cơ chế thúc đẩy đầu tư/mua điện từ Lào nhập khẩu về Việt Nam thông qua giá điện.

Sớm đàm phán với phía Trung Quốc về quy mô và thời hạn mua điện bằng cấp điện áp 220kV. Tiếp tục xúc tiến trao đổi với phía Trung Quốc về khả năng nhập khẩu cấp điện áp 500kV.

Thứ ba: Về xây dựng lưới điện: Đẩy mạnh tiến độ xây dựng đường dây 500kV Vũng Áng - Dốc Sỏi - Pleiku 2, đảm bảo vận hành trước năm 2020.

Thứ tư: Về nâng cao khả năng tích hợp nguồn năng lượng tái tạo: Nghiên cứu nâng cao khả năng điều độ nguồn năng lượng tái tạo theo phương pháp huy động tổ máy cải tiến kết hợp với dự báo thời tiết đang được các nước có quy mô nguồn năng lượng tái tạo lớn ứng dụng.

Nghiên cứu nâng cao năng lực truyền tải của hệ thống truyền tải điện hiện tại để có thể tích hợp nguồn năng lượng tái tạo với quy mô lớn.

Nghiên cứu quy định lắp đặt các thiết bị lưới điện thông minh, cấu hình đấu nối với các dự án nguồn năng lượng tái tạo để thuận lợi cho điều khiển và vận hành hệ thống.

Năng lượng Việt Nam: Cũng theo Quy hoạch điện VII Bộ trưởng vừa nêu, trong cơ cấu nguồn điện nước ta, điện mặt trời sẽ đạt 800 MW vào năm 2020 và 4.000 MW vào 2025. Tuy nhiên, được biết, hiện nay có nhiều địa phương đang tiến hành lập Quy hoạch năng lượng tái tạo, trong đó đề xuất và đăng ký phát triển rất nhiều các dự án điện mặt trời (công suất lên tới 10.000 MW). Xin Bộ trưởng cho biết chủ trương của Bộ Công Thương trong việc quản lý, xem xét, phê duyệt các dự án này như thế nào?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Thực hiện quyết định số 11/2017/QĐ-TTg, ngày 11/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích các dự án điện mặt trời tại Việt Nam, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 16/2017/TT-BCT ngày 12/9/2017, quy định về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời (có hiệu lực từ ngày 26/10/2017).

Chủ trương phát triển các nguồn năng lượng tái tạo là chủ trương xuyên suốt của Chính phủ, vì đây là nguồn điện không phát thải, giảm tác động tới môi trường, góp phần cho phát triển bền vững, đáp ứng cam kết của Chính phủ đối với Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP21). Ngoài ra, đây cũng là một trong những giải pháp nhằm thay thế việc dừng xây dựng dự án điện hạt nhân.

Hiện nay, chúng tôi đang tiến hành lập Quy hoạch phát triển điện mặt trời toàn quốc, dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2018 và đang xem xét, phê duyệt Quy hoạch điện mặt trời một số tỉnh (Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Phước…), dự kiến trong quý I/2018. Việc quản lý, xem xét và phê duyệt các dự án điện mặt trời sẽ thuận lợi hơn sau khi có Quy hoạch điện mặt trời.

Về công tác thẩm định, bổ sung các dự án điện mặt trời riêng lẻ: tính đến cuối năm 2017, chúng tôi đã nhận được đề xuất bổ sung quy hoạch của các tỉnh và nhà đầu tư với tổng cộng 169 dự án điện mặt trời, tổng công suất là 15.243 MWp (trong đó số lượng dự án đã được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương phê duyệt bổ sung quy hoạch là 44 dự án, với tổng công suất 4.350 MWp), bao gồm:

Công suất dự kiến vận hành trước năm 2020 là 10.087 MWp, trong đó đã được phê duyệt bổ sung quy hoạch là 2.293 MWp.

Công suất dự kiến vận hành sau năm 2020 là 5.156 MWp, trong đó đã phê duyệt bổ sung quy hoạch là 2.056 MWp.

Tính toán sơ bộ cho thấy rằng, năng lực hệ thống điện vẫn còn có khả năng cho phép bổ sung quy hoạch thêm một số dự án tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Thuận, Ninh Thuận, Đắk Lăk. Tuy nhiên, để có thể giải phóng hết lượng công suất đang và sẽ tiếp tục đăng ký của các tỉnh như: Ninh Thuận, Bình Thuận, cần đầu tư mở rộng, tăng công suất đường dây, trạm tại các tỉnh này. Trường hợp chưa kịp đầu tư mở rộng, tăng công suất đường dây, trạm tại các tỉnh này, cần xem xét tổng thể khả năng truyền tải của hộ thống điện theo từng giai đoạn quy hoạch để xác định mức đăng ký công suất phát triển năng lượng tái tạo. Trường hợp chưa kịp đầu tư mở rộng, tăng công suất đường dây, trạm thì cần xem xét việc bổ sung các dự án điện gió, mặt trời tại các tỉnh này đã đến ngưỡng giới hạn "hấp thụ" của hệ thống.

Về các công việc đang triển khai liên quan đến quy hoạch điện mặt trời:

Bộ Công Thương đã có văn bản số 6201/BCT-TCNL ngày 11/11/2017, giao Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nghiên cứu tính toán ảnh hưởng của các dự án điện mặt trời đến hệ thống điện quốc gia (ảnh hưởng về điện áp, tần số, chất lượng điện năng, ổn định hệ thống cung cấp điện) và đề xuất các giải pháp thực hiện để đảm bảo an toàn ổn định hệ thống điện khi đấu nối các dự án điện mặt trời vào hệ thống điện quốc gia.

Hiện nay, EVN đang thuê tư vấn nước ngoài để nghiên cứu, tính toán và đề xuất giải pháp theo yêu cầu của Bộ Công Thương.

Trong thời gian qua, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo đã làm việc với Ngân hàng Thế giới (WB) và đã thống nhất nguyên tắc về việc để WB hỗ trợ 3 dự án liên quan đến năng lượng tái tạo (trong đó có điện mặt trời).

Cụ thể là hỗ trợ kỹ thuật thúc đẩy phát triển điện mặt trời nhằm xây dựng lộ trình phát triển điện mặt trời của Việt Nam đạt mục tiêu 12.000 MW đến năm 2030; hỗ trợ EVN có được kiến thức, kinh nghiệm trong việc vận hành, tích hợp dự án năng lượng mặt trời vào lưới điện; hỗ trợ EVN xác định địa điểm phù hợp cho dự án điện mặt trời và xây dựng nghiên cứu tiền khả thi/khả thi.

Cạnh đó là hỗ trợ kỹ thuật thí điểm xây dựng cơ chế đấu thầu, xây dựng, đầu tư dự án điện mặt trời hòa lưới điện quốc gia. Và đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu tích hợp năng lượng tái tạo vào hệ thống điện Việt Nam.

Về công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện đầu tư, chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh theo quy định tại Thông tư số 43/2016/TT-BCT, về cam kết phát triển dự án và cơ chế xử lý các dự án nhà máy điện không thực hiện đúng tiến độ cam kết. Trước mắt, Bộ Công Thương sẽ có văn bản gửi các địa phương tập trung nhiều dự án điện mặt trời đề nghị báo cáo tình hình thực hiện và đánh giá tiến độ các dự án điện mặt trời trên địa bàn của tỉnh kèm theo các đề xuất phân kỳ phù hợp.

Về công tác thẩm định, bổ sung quy hoạch: Tuân thủ chặt chẽ các tiêu chí đảm bảo dự án sẽ được triển khai trong thực tế có hiệu quả. Đảm bảo cơ chế khuyến khích theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg.

Năng lượng Việt Nam: Theo chúng tôi được biết, dự tính Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2016 đến 2035 (mới) xây dựng rất công phu, tuy vậy, quy hoạch này lại dựa trên quy hoạch phát triển ngành than, dầu - khí đã có. Theo Bộ trưởng, cách tiệm cận như vậy có hợp lý không? Mặt khác, kết quả quy hoạch này có tỷ trọng nhiệt điện than gần như không thay đổ so với Quy hoạch điện VII (điều chỉnh). Theo Bộ trưởng, chúng ta có nên xem xét, tính toán lại?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Phương pháp lập Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia được thiết kế trên một sơ đồ nghiên cứu tổng thể, bao trùm toàn bộ hệ thống năng lượng, từ khâu khai thác, xuất, nhập khẩu nhiên liệu tới khâu chuyển hóa, vận tải năng lượng đến các hộ tiêu thụ khác nhau. Quy hoạch nghiên cứu phát triển hài hòa các phân ngành: than, dầu khí, điện và năng lượng tái tạo để thực hiện mục tiêu quốc gia về an ning năng lượng, về tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, thực hiện mục tiêu quốc gia về cắt giảm khí thải nhà kính.

Quy hoạch phát triển các phân ngành: than, dầu khí, điện lực... là các quy hoạch thực hiện theo chu kỳ, đảm bảo sự phát triển của mỗi phân ngành năng lượng riêng. Cơ sở pháp lý và khoa học của các quy hoạch phân ngành năng lượng là một tham khảo đầu vào rất quan trọng trong Quy hoạch tổng thể, cho thấy khả năng cung cấp năng lượng từ mỗi phân ngành, nhưng chưa cho thấy tính hài hòa trong phát triển chung.

Kết quả từ quy hoạch các phân ngành: than, dầu khí, điện lực đã góp phần tiết kiệm thời gian và nguồn lực để nghiên cứu chi tiết, chuyên sâu cho mỗi phân ngành, nhưng đó không phải là kết quả của Quy hoạch năng lượng quốc gia.

Các kịch bản nghiên cứu và đề xuất trong Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia mang tính độc lập tương đối, với các mục tiêu cực tiểu hóa chi phí tổng thể ngành năng lượng, đáp ứng mục tiêu chung của ngành, phù hợp với các chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ và phù hợp với các cam kết của Viêt Nam với quốc tế.

Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia dựa trên khả năng cung cấp trong nước của quy hoạch phát triển ngành than, dầu, khí (mới nhất). Từ đó, trên cơ sở cân đối cung cầu và phát triển tối ưu hệ thóng năng lượng, Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia xác định mức độ khai thác hợp lý năng lượng trong nước (than, dầu thô, khí tự nhiên, năng lượng tái tạo...) và phần thiếu hụt cần nhập khẩu (than, dầu thô, LNG, sản phẩm dầu...). Kết quả của Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia tái khẳng định việc cần thiết khai thác các nguồn năng lượng trong nước cũng như đánh giá điều chỉnh giảm nhu cầu năng lượng nhập khẩu so với các quy hoạch phân ngành năng lượng.

Vượt qua phạm vi các quy hoạch các phân ngành năng lượng đã có, Quy hoạch đã đánh giá được các kết quả như sau:

1/ Khả năng tiết kiệm năng lượng từ các ngành kinh tế, các lĩnh vực dân dụng.

2/ Tiềm năng phát triển mạnh các dựng năng lượng tái tạo. Và,

3/ Khả năng đáp ứng các mục tiêu cắt giảm phát thải khí nhà kính theo các cam kết của Việt Nam.

Ở kịch bản đề xuất của Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng đạt mức từ 6-10% và mức cắt giảm phát thải CO2 trong khoảng 12-18% trong giai đoạn 2025-2035 so với kịch bản sơ sở. Từ đó, Quy hoạch đã kiến nghị hàng loạt chính sách, giải pháp điều hành tổ chức để thực hiện hiện Kịch bản đề xuất cho phát triển chung của ngành năng lượng cũng như các phân ngành riêng.

Theo kết quả tính toán độc lập trong Quy hoạch, tỷ trọng điện sản xuất từ nhiệt điện than ở năm 2030 giảm từ mức 53% (304 tỷ kWh) trong Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) xuống mức 49% (265 tỷ kWh) ở kịch bản cơ sở và 46% (224 tỷ kWh) trong kịch bản đề xuất. Đây là kết quả phát triển tối ưu hệ thống năng lượng (chi phí cực tiểu) trong điều kiện thực hiện tiết kiệm năng lượng và thỏa mãn các mục tiêu của Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo và thực thi các cam kết về cắt giảm khát thải phù hợp với Chiến lược tăng trưởng xanh và Báo cáo dự kiến đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC).

Năng lượng Việt Nam: Thưa Bộ trưởng, tại sao Quy hoạch ngành than (403/2016) lại được phê duyệt với sản lượng than giảm tới trên 30% so với quy hoạch trước? Trong lúc nhu cầu than của Việt Nam vẫn rất lớn. Chúng ta đã gặp khó khăn gì? Hay vì lý do giá than thế giới thấp và sẽ còn thấp, chúng ta nhập sử dụng, để dành than trong nước cho sau này?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Theo tôi, trước hết chúng ta cần phải làm rõ mục tiêu chênh lệch mục tiêu sản lượng than thương phẩm toàn ngành giữa các quy hoạch. Cụ thể như sau:

Tại Quyết định số 60/ QĐ-TTg ngày 09/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch 60), mục tiêu sản lượng than thương phẩm toàn ngành theo các giai đoạn như sau: năm 2020 từ 60-65 triệu tấn; năm 2025 từ 66-70 triệu tấn; năm 2030 trên 75 triệu tấn.

Tại Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 14/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch 403), mục tiêu sản lượng than thương phẩm toàn ngành theo các giai đoạn có giảm đi so với Quy hoạch 60 với số liệu cụ thể như sau: năm 2020 từ 47-50 triệu tấn; năm 2025 từ 51-54 triệu tấn; năm 2030 từ 55-57 triệu tấn. Tuy nhiên, mục tiêu sản lượng than thương phẩm toàn ngành bình quân theo các giai đoạn của Quy hoạch 403 chỉ giảm khoảng 23% so với Quy hoạch 60, không phải giảm 30% như ý kiến của Tạp chí Năng lượng Việt Nam.

Nguyên nhân mục tiêu sản lượng trong Quy hoạch 403 giảm so với Quy hoạch 60, bởi các lý do sau:

Do kết quả dự báo nhu cầu than cho các ngành kinh tế tại thời điểm lập và phê duyệt Quy hoạch 403 giảm so với thời điểm lập và phê duyệt Quy hoạch 60, cụ thể:

Theo Quy hoạch 60, tổng nhu cầu than của các ngành kinh tế trong nước đến năm 2020 khoảng 114,4 triệu tấn; năm 2025 khoảng 145,5 triệu tấn; năm 2030 khoảng 220,3 triệu tấn.

Tuy nhiên, theo Quy hoạch 403, tổng nhu cầu than cho các ngành kinh tế trong nước đến năm 2020 khoảng 86,4 triệu tấn, giảm khoảng 28 triệu tấn so với Quy hoạch 60; năm 2025 khoảng 112,5 triệu tấn, giảm khoảng 24 triệu tấn so với Quy hoạch 60; năm 2030 khoảng 156,6 triệu tấn, giảm khoảng 63,7 triệu tấn so với Quy hoạch 60.

Như vậy, tại thời điểm lập và phê duyệt Quy hoạch 403, dự báo nhu cầu than của các ngành kinh tế trong nước giảm đi rất nhiều so với thời điểm lập và phê duyệt Quy hoạch 60, ảnh hưởng đến việc đề xuất mục tiêu sản lượng trong Quy hoạch 403.

Do có sự thay đổi về quan điểm phát triển ngành than Việt Nam theo các thời kỳ lập và phê duyệt Quy hoạch, cụ thể:

Thời điểm lập và phê duyệt Quy hoạch 60, ngành than Việt Nam được phát triển theo quan điểm khai thác để đáp ứng tối đa nhu cầu than phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, Quy hoạch 60 đã tối đa sản lượng than khai thác.

Tuy nhiên, thời điểm lập và phê duyệt Quy hoạch 403 đã có sự điều chỉnh về quan điểm phát triển ngành than Việt Nam. Theo đó, việc sản xuất và tiêu thụ than phải đảm bảo bền vững, đáp ứng lâu dài cho nhu cầu sử dụng trong nước. Do đó, Quy hoạch 403 tối đa sản lượng than khai thác trong điều kiện kỹ thuật cho phép; phù hợp với dự báo tiềm năng tài nguyên than của toàn ngành và khả năng cơ giới hóa, trình độ kỹ thuật, công nghệ khai thác của ngành than hiện nay. Vì vậy, mục tiêu sản lượng than thương phẩm toàn ngành trong Quy hoạch 403 giảm so với Quy hoạch 60.

Về giá than nhập khẩu hiện nay so với giá than sản xuất trong nước:

Kết quả dự báo trong Quy hoạch 403 cho thấy, trong tương lai, giá than thế giới nhập khẩu về Việt Nam (tính cả chi phí nhập khẩu về Việt Nam) sẽ cao hơn giá bán than sản xuất trong nước. Cụ thể như sau:

Giai đoạn đến năm 2020: giá than thế giới khoảng 86,9 US$/tấn, cao hơn khoảng 10,2 US$/tấn so với giá bán than trong nước (khoảng 76,7 US$/tấn).

Giai đoạn 2021-2025: giá than thế giới khoảng 96 US$/tấn, cao hơn khoảng 15,8 USD/tấn so với giá bán than sản xuất trong nước (khoảng 80,2 US$/tấn).

Giai đoạn 2026 - 2030: giá than thế giới khoảng 103,1 US$/tấn, cao hơn khoảng 16,3 US$/tấn so với giá bán than sản xuất trong nước (khoảng 86,8 US$/tấn).

Qua báo cáo của các đơn vị ngành than (TKV và Tổng công ty Đông Bắc) cho thấy, giá than antraxit nhập khẩu từ Nga hiện nay cao hơn khoảng 7 US$/tấn với loại than sản xuất trong nước tương đương - than cám 3c.1 theo TCVN 8910:2015.

Còn giá than nhiệt nhập khẩu từ Úc hiện nay cao hơn khoảng 17 US$/tấn so với loại than sản xuất trong nước có nhiệt trị tương đương - than 3c.1 theo TCVN 8910:2015.

Như vậy, trong dài hạn, dự báo giá than nhập khẩu về Việt Nam cao hơn so với than sản xuất trong nước; hiện nay, giá than nhập khẩu về Việt Nam cũng đang cao hơn so với than sản xuất trong nước. Vì vậy, giá than nhập khẩu không phải là lý do dẫn đến giảm mục tiêu giảm sản lượng than thương phẩm toàn ngành trong Quy hoạch 403 so với Quy hoạch 60 như nội dung câu hỏi của Tạp chí Năng lượng Việt Nam vừa nêu.

Năng lượng Việt Nam: Vâng, chúng tôi đã hiểu ý của Bộ trưởng. Một câu hỏi khác liên quan đến điện khí. Thưa Bộ trưởng, chủ trương phát triển cơ sở hạ tầng và tăng sử dụng khí hóa lỏng (LNG) cho phát điện được dựa trên cơ sở luận chứng, tính toán nào?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: LNG là nguồn năng lượng sạch đang được xem là một trong những giải pháp quan trọng và xu hướng tất yếu đối với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh việc khai thác các nguồn tài nguyên truyền thống của Việt Nam như thủy điện, than, dầu khí đang trên đà suy giảm.

Do vậy, thực hiện Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đã được Bộ Chính trị thông qua tại Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 23 tháng 7 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Dầu khí Việt Nam giai đoạn đến năm 2025 (tại Quyết định số 1623/QĐ-TTG ngày 25 tháng 10 năm 2017) và Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035 (tại Quyết định số 60/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017), với quan điểm và mục tiêu phát triển kho cảng nhập khẩu LNG như sau:

Thứ nhất: Về quan điểm phát triển: Phát triển ngành công nghiệp khí trên nguyên tắc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, hợp lý nguồn tài nguyên trong nước. Triển khai nhập khẩu LNG song song với việc thu gom các nguồn khí mới trong nước để bổ sung cho các nguồn khí đang suy giảm, duy trì khả năng cung cấp khí cho các hộ tiêu thụ, từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng hệ thống kho chứa, nhập khẩu, phân phối LNG.

Thứ hai: Về mục tiêu phát triển: Nghiên cứu, tìm kiếm thị trường và đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kho cảng để sẵn sàng tiếp nhận, nhập khẩu LNG với mục tiêu cho từng giai đoạn (giai đoạn 2021-2025 đạt 1-4 tỷ m3/năm; giai đoạn 2026-2035 đạt 6-10 tỷ m3/năm).

Mục tiêu sản lượng nhập khẩu LNG được tính toán trên cơ sở sản lượng khí sản xuất, trên cơ sở cân đối cung cầu của các nguồn sản xuất điện và nhiên liệu sơ cấp khác tại các Đề án Quy hoạch phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, Quy hoạch ngành công nghiệp Khí Việt Nam nêu trên và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đế năm 2030 điều chỉnh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 628/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2016.

Năng lượng Việt Nam: Câu hỏi cuối, thưa Bộ trưởng, đã đến lúc chúng ta nên sớm đánh giá, rút bài học kinh về hình thức đầu tư BOT trong ngành năng lượng Việt Nam?

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Theo Quy hoạch điện quốc gia, để đáp ứng nhu cầu về năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với mức tăng trưởng GDP khoảng 7%/năm trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 thì tốc độ tăng trưởng ngành điện phải đạt 7,5-10,5%. Tổng công suất nguồn điện đến năm 2020 phải đạt 60 GW từ mức trên 40 GW như hiện tại; đến năm 2030 phải đạt khoảng 130 GW. Điều này có nghĩa là từ nay đến năm 2020, bình quân mỗi năm phải đưa vào vận hành gần 5 GW; giai đoạn 2021 - 2030 mỗi năm cần đưa vào vận hành khoảng 7 GW. Tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện dự kiến rất lớn, từ nay đến năm 2030 phải đầu tư khoảng 140 tỷ USD.

Trong khi đó, việc huy động vốn từ nguồn ngân sách và những nguồn khác hiện nay rất khó khăn. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đảm bảo an ninh năng lượng, các dự án nguồn điện đầu tư theo hình thức BOT hiện nay vẫn là một kênh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiệu quả. Việc quan trọng cần làm là chúng ta phải thực hiện theo đúng quy định hiện hành, đảm bảo tiến độ, chất lượng hiệu quả.

Năng lượng Việt Nam: Xin chân thành cám ơn Bộ trưởng. Nhân dịp năm mới, xin kính chúc Bộ trưởng sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Kính chúc ngành Năng lượng của Việt Nam luôn phát triển và bền vững.

TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động