RSS Feed for Dầu khí và điện gió ngoài khơi: Cạnh tranh, hay hợp tác? Bài học cho Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ tư 25/06/2025 19:32
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Dầu khí và điện gió ngoài khơi: Cạnh tranh, hay hợp tác? Bài học cho Việt Nam

 - Những diễn biến gần đây trên Biển Bắc đã cho thấy ngành công nghiệp hydrocarbon và điện gió đang hướng tới “đồng phát triển ngoài khơi”, nhất là khi nhu cầu năng lượng tăng vọt. Tạp chí FPT của Anh vừa phân tích sâu về chủ đề này, Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổng hợp dưới đây để chúng ta cùng tham khảo nhằm rút ra bài học hữu ích cho Việt Nam.
Ý kiến của Bộ Tài chính về các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 gửi Bộ Công Thương Ý kiến của Bộ Tài chính về các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 gửi Bộ Công Thương

Bộ Tài chính vừa có văn bản gửi gửi Bộ Công Thương trao đổi về “Báo cáo của Tạp chí Năng lượng Việt Nam về các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận”. Trong văn bản, Bộ Tài chính thông tin một số nội dung liên quan đến nhiệm vụ đàm phán với các đối tác cung cấp tín dụng; cũng như quan điểm về thời gian, nguồn nhân lực, công nghệ, chi phí đầu tư, đối tác... cho các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2. Trân trọng gửi tới các cơ quan quản lý, chủ đầu tư, đơn vị liên quan và bạn đọc cùng tham khảo.

Lò hạt nhân nhỏ cho Việt Nam - Gợi ý bước khởi động triển khai Quyết định 1131 của Thủ tướng Lò hạt nhân nhỏ cho Việt Nam - Gợi ý bước khởi động triển khai Quyết định 1131 của Thủ tướng

Ngày 12/6/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1131/QĐ-TTg Ban hành danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược. Trong đó xác định: “Lò phản ứng hạt nhân nhỏ, an toàn là một trong các công nghệ chiến lược”. Bài viết dưới đây của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam tìm hiểu một số thông tin về lò phản ứng hạt nhân nhỏ trên thế giới, chú ý một số đối tác tiềm năng của Việt Nam và đề xuất một số bước đi khởi động triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Tổng quan gió ngoài khơi - Dầu khí thời hiện đại:

Điện gió ngoài khơi và dầu khí càng trở nên quan trọng trong bối cảnh khí hậu biến đổi cực đoan, khủng hoảng năng lượng, địa chính trị căng thẳng và mục tiêu Net Zero cam kết đang đến gần. Bằng chứng là năng lượng gió đã không ngừng mở rộng (từ các dự án trên bờ, sang không gian biển) kể từ đầu thập niên 90, quá trình buộc hai ngành công nghiệp phải tính đến những thách thức và cơ hội cho sự hợp tác.

Hiện nay, các nhà khai thác dầu khí đang nghiên cứu việc sử dụng gió để cung cấp năng lượng cho các cơ sở ngoài khơi, cũng như chia sẻ, hoặc tái sử dụng cơ sở hạ tầng tương thích với các nhà khai thác điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn (trong cả việc phân bổ nguồn lực công bằng và các phức tạp về mặt quy định).

Theo GlobalData công ty mẹ của Tạp chí FPT: Đến năm 2030, gần 15% trong tổng số 4,8 petawatt-giờ - PWh (1 PW bằng 1.000 tỷ kW) công suất điện gió dự kiến ​​sẽ được tạo ra từ các dự án ngoài khơi. Động lực của điện gió ngoài khơi đang được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ khi các nhà phát triển đạt được các cơ sở lắp đặt lớn hơn ở vùng nước sâu hơn để khai thác tốc độ gió cao hơn (và thường ổn định hơn). Tua bin gió đáy cố định sâu nhất thế giới 58,6 mét, được đồng sở hữu bởi SSE và TotalEnergies như một phần của dự án Seagreen trị giá 3,7 tỷ USD tại Scotland, đã được đưa vào vận hành vào năm 2023.

Theo GlobalData: Điện gió đang giành được nhiều vị trí hơn trên các khu vực có tiềm năng hydrocarbon, với các tua bin nổi được lắp trên các bệ neo. Những tua bin này hoạt động ở vùng nước mà tua bin đáy cố định thông thường không khả thi do hạn chế về độ sâu và điều kiện đáy biển. Gió ngoài khơi hiện do các công ty điện như Iberdrola và NextEra Energy dẫn đầu, nhưng các công ty dầu khí sẽ giành được thị phần đáng kể trong thập kỷ tới. Riêng Tập đoàn Dầu khí TotalEnergies sẽ là nhà sản xuất năng lượng gió lớn thứ tư trên toàn cầu vào năm 2030, với điều kiện tất cả các dự án được đề xuất của Total đều đi vào hoạt động.

Equinor của Na Uy, chủ yếu là nhà sản xuất hydrocarbon, cũng đã có những động thái nghiêm túc vào phân khúc gió ngoài khơi, với kế hoạch lắp đặt công suất ròng là 10-12 GW vào năm 2030. Tuy nhiên, Equinor đã minh bạch về những thách thức tài chính mà họ phải đối mặt trong quá trình công nghiệp hóa và kiếm tiền từ công nghệ này (sau khi hủy các dự án gió ngoài khơi ở Tây Ban Nha, Mexico và Việt Nam vào năm 2024).

Tại Hoa Kỳ, sự phản đối của Chính phủ đối với điện gió ngoài khơi đã ảnh hưởng đến các công ty châu Âu. Tuy vậy, châu Âu vẫn đang ở vị thế tăng gấp đôi về cả công nghệ và dịch vụ đồng phát triển. Đáng chú ý, Biển Bắc là trung tâm của hoạt động đồng phát triển, với nguồn tài nguyên hydrocarbon và gió mạnh mẽ được quản lý bởi một mạng lưới phức tạp gồm các cơ quan quốc gia và tổ chức quốc tế, một trong số đó là Cơ quan Chuyển đổi Biển Bắc (NSTA) của Anh. NSTA đã và đang coi “đồng phát triển đã trở thành trọng tâm chính trong 5 năm qua tại lưu vực, do điện gió ngoài khơi nổi đang tiến gần hơn đến dầu khí”.

Chính phủ Anh hiện đang tiến hành tham vấn đầu tư tư nhân vào công nghệ để đạt được mục tiêu thành lập ngành công nghiệp năng lượng sạch ngoài khơi “đẳng cấp thế giới” kết hợp nhiều công nghệ. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác suôn sẻ giữa ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi và dầu khí là bước đầu tiên để đạt được mục tiêu này, với sự hỗ trợ của cơ sở hạ tầng tương thích, kỹ năng của lực lượng lao động và chia sẻ năng lượng.

Cơ hội tích hợp điện gió ngoài khơi và dầu khí:

Dự án Hywind Tampen của Equinor ngoài khơi Bờ biển Na Uy tại Biển Bắc là một ví dụ tiên phong kết hợp công nghệ điện gió và hydrocarbon. Theo Equinor: Trang trại gió nổi có quy mô lớn nhất thế giới này có công suất 88 MW, với 11 tua bin đáp ứng khoảng 35% nhu cầu điện hàng năm của 5 giàn khoan tại các mỏ ngoài khơi Snorre và Gullfaks. Việc phát triển “đồng lợi ích” cũng giúp giảm việc sử dụng hiệu quả tua bin khí, bù đắp 200.000 tấn mỗi năm (tpa) carbon dioxide (CO₂) và 1.000 tpa khí thải oxit nitơ.

Gió tiếp tục là động lực chính cho quá trình điện khí hóa và giảm phát thải của ngành dầu khí - một nhiệm vụ ngày càng phổ biến đối với các phê duyệt dự án mới. Được đưa ra vào năm 2024, Kế hoạch OGA của NSTA yêu cầu bất kỳ dự án hydrocarbon nào được đưa vào hoạt động theo thẩm quyền của mình ở Biển Bắc sau năm 2030 phải sẵn sàng điện khí hóa, hoặc lắp đặt giải pháp carbon thấp ngay từ ngày đầu tiên hoạt động.

Sự hợp tác quy mô lớn như vậy (giữa gió ngoài khơi và dầu khí) được củng cố nhờ cơ sở hạ tầng chung của các ngành. Công ty viễn thông Na Uy Tampnet cung cấp cáp quang, 5G riêng và vệ tinh cho các giàn khoan, trang trại gió và tàu ngoài khơi. Giám đốc công nghệ Anders Tysdal giải thích rằng: Cơ sở hạ tầng viễn thông có thể được nâng cấp khi việc đồng phát triển mở rộng, cho phép phát triển nhiều hơn các hoạt động lắp đặt, hoặc bảo trì điều khiển từ xa cho các dự án gió và hydrocarbon.

Theo các chuyên gia thuộc tổ chức nghiên cứu SINTEF của Na Uy: Dựa trên quan điểm của ngành dầu khí, việc có các trang trại gió gần đó để cung cấp điện là điều hợp lý để giảm chi phí và lượng khí thải. “Đối với ngành công nghiệp điện gió, kết nối này là bước đệm để đẩy nhanh quá trình phát triển ngoài khơi, vì các công ty hydrocarbon sẵn sàng trả tiền để giảm lượng khí thải có thể cao hơn mức mà khách hàng trên bờ sẵn sàng trả. Vì vậy, một dự án vẫn có thể được thực hiện (khi dự án không mang tính thương mại trên đất liền). Ngay cả khi không tính đến biến đổi khí hậu, nền tảng kinh tế của năng lượng gió cũng đang trở nên rõ ràng hơn do thuế CO₂ tăng” - SINTEF cho hay.

Cũng theo SINTEF: Điện gió nổi là một lĩnh vực tăng trưởng chính. Những bài học kinh nghiệm có thể được chuyển trực tiếp từ những gì đã thực hiện trên các tàu sản xuất nổi và các loại giàn khoan khác sang nhiều hệ thống được sử dụng trong điện gió nổi. Chẳng hạn như cơ chế neo, hoặc cơ chế nổi. Lực lượng lao động của cả hai ngành đều đang tạo điều kiện cho sự tiến bộ như vậy. Báo cáo của Offshore Energies UK cho thấy: 90% công nhân trong ngành dầu khí và chuỗi cung ứng liên quan có các kỹ năng có thể chuyển giao sang các ngành năng lượng ngoài khơi khác (bao gồm cả điện gió). Tuy nhiên, ngay cả khi việc đồng phát triển tạo ra những cơ hội mới cho hai ngành công nghiệp, thì áp lực bổ sung đang được đặt lên các nguồn tài nguyên chung, không gian biển, lao động và chuỗi cung ứng.

Sự cạnh tranh và chồng chéo:

Gió ngoài khơi là một ngành tương đối mới gia nhập môi trường biển, với đáy biển ngày càng bận rộn. Các nhà phát triển trang trại gió và hydrocarbon đang cạnh tranh để có cùng thiết bị chuyên dụng và lao động lành nghề để xây dựng, cũng như bảo trì các tài sản ngoài khơi.

Trong những năm gần đây, giá thuê tàu biển đã tăng vọt, đặc biệt là từ tháng 1/2025, các tàu có thể hoạt động trong môi trường dưới biển được ghi nhận là đặc biệt khan hiếm do nhu cầu từ gió ngoài khơi tăng cao. Các công ty dầu khí truyền thống cũng lo ngại lực lượng lao động của họ sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp tái tạo. Điều này sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt kỹ năng do tình trạng nghỉ hưu hàng loạt, như dự đoán trong ngành công nghiệp ngoài khơi của Na Uy, và làm phức tạp thêm khái niệm chuyển đổi trực tiếp người lao động từ ngành này sang ngành khác.

Có một bức tranh tương tự liên quan đến việc tái sử dụng cơ sở hạ tầng, như Svendsen giải thích: “Về nguyên tắc, khi các giàn khoan dầu khí ngừng hoạt động, cơ sở hạ tầng dầu mỏ có thể được thay thế bằng bộ chuyển đổi điện các trạm (ví dụ, để biến chúng thành một trung tâm năng lượng gió). Nhưng không rõ liệu điều này có khả thi không. Nhiều giàn khoan dầu khí đã được thiết kế cho một mục đích sử dụng cụ thể. Để thay đổi điều này, chúng cần được đưa lên bờ và xây dựng lại với chi phí rất lớn” - SINTEF bổ sung thêm.

Ngành năng lượng ngoài khơi cũng đang cạnh tranh về thép - một vật liệu xây dựng quan trọng cho các giàn khoan và tua bin gió. Chuỗi cung ứng thép toàn cầu gần đây đã bị ảnh hưởng bởi mức thuế 25% của Hoa Kỳ làm gián đoạn cung - cầu đối với các nhà sản xuất và giá cả đối với các nhà phát triển ngoài khơi. Ngoài những trở ngại ngắn hạn, một vấn đề dai dẳng trong đồng phát triển là sự chồng chéo.

Việc gia tăng các cơ sở lưu trữ và sử dụng carbon (CCUS) đang tạo ra thêm tình trạng tắc nghẽn. Một ví dụ chính là sự chồng chéo giữa trang trại điện gió Outer Dowsing - khu vực cấp phép CCUS của đối tác Northern Endurance và các hoạt động khai thác hydrocarbon của Perenco ở Biển Bắc. “Khi tình trạng chồng chéo trở nên thường xuyên hơn, nhu cầu phải xem xét trước các dự án lớn hơn nhiều. Theo thông lệ, trước khi triển khai vòng cấp phép mới, SINTEF sẽ tham khảo ý kiến ​​của Crown Estate vào cuối quá trình và giải quyết tình trạng chồng chéo theo từng trường hợp cụ thể. Những gì SINTEF đang chứng kiến là ngày càng có nhiều dấu hiệu cảnh báo xuất hiện với các dự án phát triển mới như trang trại điện gió. SINTEF phải suy nghĩ về việc giảm thiểu sớm hơn nhiều để thúc đẩy sự hợp tác” - SINTEF cho hay.

Triển vọng hợp tác giữa điện gió ngoài khơi và dầu khí:

Nghiên cứu của Tạp chí Luật và Kinh doanh Năng lượng Thế giới (JWELB) thuộc Đại học Oxford, Anh cho thấy: Phần lớn tương lai của việc đồng phát triển phụ thuộc vào các quy định pháp luật, chính sách của chính phủ và địa chính trị. Ví dụ, tại Na Uy, kinh nghiệm về quy định và lập pháp của quốc gia này đóng vai trò là mô hình tiềm năng cho các chế độ quy định trong tương lai về điện khí hóa năng lượng gió.

Thật vậy, một trong những điều kiện của Chính phủ Na Uy để trao dự án điện gió ngoài khơi Sørlige Nordsjø II công suất 3 GW cho Eventyr Energy là đánh giá về việc cung cấp điện gió cho Ekofisk gần đó - một trong những mỏ dầu khí lớn nhất trên Thềm lục địa Na Uy.

Theo JWELB: Trong một thế giới quản lý lý tưởng, mỗi ngành sẽ có sự kết hợp các biện pháp bảo vệ cho những người sử dụng đáy biển khác trong khi vẫn chăm lo cho lợi ích của riêng họ như một phần của môi trường hợp tác. Mười năm trước, mọi người sẽ không thể dự đoán được rằng việc đồng phát triển sẽ trở thành một vấn đề quan trọng như vậy. “Quy hoạch hàng hải hiện nay phải hướng đến việc tối ưu hóa không gian và nếu có nhiều xung đột hơn, chính phủ có thể phải quyết định hoạt động nào được ưu tiên trong một số tình huống” - JWELB cho hay.

Kết hợp dầu khí và điện gió ngoài khơi - Nhìn từ Việt Nam:

Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam - PVN) đang chuyển mình trong cuộc cách mạng năng lượng bền vững, với sự kết hợp giữa điện gió ngoài khơi và dầu khí. Đây không chỉ là bước đi chiến lược nhằm thực hiện tinh thần Kết luận 76-KL/TW của Bộ Chính trị, mà còn khẳng định vị thế tiên phong của PVN trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế xanh.

Do đó, PVN không chỉ chịu trách nhiệm cung ứng các nguồn năng lượng truyền thống (dầu mỏ và khí đốt), mà còn phải tiên phong trong việc phát triển các nguồn năng lượng sạch và tái tạo. Như đã thấy, PVN là doanh nghiệp duy nhất ở Việt Nam có các dữ liệu địa chất đáy biển quốc gia được thu thập và lưu trữ trong quá trình khảo sát, tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Cạnh đó, PVN có năng lực cần thiết để cung cấp các dịch vụ khảo sát (khảo sát đáy biển, khảo sát kỹ thuật vật lý…) là các hạng mục công việc thực hiện thường xuyên trong hoạt động dầu khí và nghiên cứu tiền khả thi dự án điện gió ngoài khơi.

Nhận thức rõ tiềm năng này, PVN đã xác định điện gió ngoài khơi là một trong những lĩnh vực ưu tiên trong chiến lược chuyển đổi năng lượng. Với kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực dầu khí, PVN sở hữu lợi thế vượt trội về công nghệ, nhân lực và hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài khơi. Những nền tảng này giúp PVN dễ dàng mở rộng sang lĩnh vực điện gió, tận dụng hiệu quả các giàn khoan, tàu dịch vụ và hạ tầng kỹ thuật sẵn có.

Năng lực của PVN trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi đã được chứng minh trong những năm gần đây, khi đơn vị thành viên của mình là Tổng công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC) đã nhanh chóng có những bước tiến đầu tiên vào chuỗi cung ứng dịch vụ điện gió ngoài khơi toàn cầu. Cụ thể là đã có nhiều đơn hàng lớn cho các khách hàng quốc tế như sản xuất 33 chân đế trụ tua bin điện gió cho khách hàng Ørsted (Đan Mạch) và 10 trạm biến áp cho các dự án điện gió ngoài khơi ở châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương.

Ngoài việc tham gia chuỗi cung ứng, PTSC còn hướng đến vai trò nhà đầu tư và phát triển dự án. Hiện PTSC đã hợp tác với Sembcorp Utilities Pte. Ltd. (SCU) để phát triển dự án điện gió ngoài khơi Việt Nam xuất khẩu điện sang Singapore.

Các dự án nói trên là bước đệm đầu tiên, phản ánh sự quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, cũng như trong việc thực hiện các mục tiêu về điện gió ngoài khơi đề ra trong Quy hoạch điện VIII.

Theo Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030, công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước sẽ đạt khoảng 6.000 MW, và có thể tăng thêm tùy vào sự phát triển công nghệ, chi phí truyền tải hợp lý. Đến năm 2050, tổng công suất điện gió ngoài khơi dự kiến đạt từ 70.000-91.500 MW.

Nhưng để thực hiện được các mục tiêu trên, nhiều chuyên gia đã chỉ ra rằng: Việt Nam phải sớm hoàn thiện khung pháp lý và quy hoạch tổng thể, với các quy định rõ ràng về cấp phép và hướng dẫn kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án. Đồng thời, đầu tư hạ tầng kỹ thuật như cảng biển, cùng như thiết bị vận chuyển tại các khu vực trọng điểm sẽ hỗ trợ triển khai các dự án quy mô lớn, đảm bảo tính đồng bộ và hiện đại.

Nguồn nhân lực chất lượng cao cũng cần được đặc biệt chú trọng thông qua đào tạo chuyên sâu và tận dụng kinh nghiệm từ ngành dầu khí. Về nguồn vốn, cần kêu gọi đầu tư quốc tế, xây dựng quỹ hỗ trợ năng lượng tái tạo và liên kết với các tập đoàn lớn để tiếp cận công nghệ tiên tiến.

Ngoài ra, phát triển chuỗi cung ứng nội địa sẽ giúp giảm chi phí, nâng cao tính cạnh tranh và tạo động lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Quan trọng hơn cả, việc triển khai các dự án thí điểm sẽ là bước đi chiến lược để hoàn thiện hành lang pháp lý, tích lũy kinh nghiệm và mở rộng quy mô trong tương lai.

Chặng đường phía trước không hề dễ dàng và còn nhiều thách thức. Những rào cản về cơ chế, công nghệ và vốn đầu tư đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp từ cả Chính phủ, doanh nghiệp và đối tác quốc tế. Nhưng với tinh thần tiên phong, PVN rất có thể sẽ biến những thách thức thành động lực, đưa ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi Việt Nam phát triển, trong đó có chiến lược kết hợp hài hòa giữa hai phân khúc dầu khí và điện gió ngoài khơi./.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Link tham khảo:

1. https://power.nridigital.com/future_power_technology_may25/offshore_wind_and_oil_and_gas_a_lesson_in_competition_or_coordination

2. https://pvn.vn/chuyen-muc/tap-doan/tin/5053e73f-4bbc-44ce-9658-8edc62b2e4ad

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động