Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 12]: Động thái của thế giới và Nhật Bản đối với LNG
06:19 | 17/09/2021
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 11]: Thách thức chứng thực ‘Hydro xanh’ thương mại Trong khi các quốc gia trên thế giới coi năng lượng Hydro là một lựa chọn quan trọng để trung hòa Carbon, thì Nhật Bản cũng đang mở rộng đầu tư vào lĩnh vực này. Nhật Bản đang đi trước các quốc gia khác về mặt công nghệ trong việc sử dụng Hydro, nhưng câu hỏi đặt ra là liệu quốc gia này có thể tận dụng ưu thế này hay không? |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 10]: Chi phí phát điện của các nguồn điện năm 2030 Nhóm công tác kiểm tra chi phí phát điện (thuộc Nhóm nghiên cứu tài nguyên năng lượng toàn diện - Văn phòng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản - METI) đã tóm tắt kết quả tạm tính chi phí phát điện của từng nguồn điện của Nhật Bản vào thời điểm năm 2020 và 2030. Điểm đáng chú ý là về chi phí sản xuất điện năm 2030 của Nhật Bản trong kết quả tạm tính lần này, chi phí cận biên của từng nguồn điện đã được thêm vào làm giá trị tham khảo. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 9]: Dự thảo Kế hoạch ‘năng lượng cơ bản’ có khả thi? Cuối tháng 7 vừa qua, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) đã tóm tắt Dự thảo Kế hoạch năng lượng cơ bản (lần thứ 6) - đây là phương châm chính sách năng lượng của Chính phủ. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Những kế hoạch năng lượng cơ bản trong trung, dài hạn của quốc gia này có khả thi? |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 8]: Điện than ‘công nghệ mới nhất’ cũng gặp khó Hội nghị thượng đỉnh 7 nước có nền công nghiệp hàng đầu thế giới (Hội nghị thượng đỉnh G7) được tổ chức tại Anh (từ ngày 11 - 13/6). Để ứng phó với biến đổi khí hậu, các nước đã nhất trí trong năm nay sẽ chấm dứt hỗ trợ xuất khẩu mới của chính phủ đối với nhiệt điện than - nguồn điện không thể thực hiện được các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) vốn thể hiện rõ quan điểm tiếp tục hỗ trợ xuất khẩu đã buộc phải thay đổi chính sách chỉ trong 3 tuần. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 7]: Cập nhật diễn tiến tái khởi động điện hạt nhân Công ty Điện lực Kansai đã tái khởi động lò phản ứng số 3 hơn 40 năm tuổi của Nhà máy điện hạt nhân Mihama (ngày 23/6/2021). Sau sự cố Nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 thuộc Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) năm 2011, thời gian vận hành tối đa của một lò phản ứng hạt nhân được quy định là 40 năm. Do đó, đây là lò phản ứng trên 40 năm tuổi đầu tiên của Nhật Bản được tái khởi động kể từ khi ban hành quy định này. Cho đến nay, đã có 10 lò phản ứng hạt nhân được tái khởi động kể từ sau sự cố Fukushima và tất cả đều là lò PWR. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 6]: Xu hướng của điện hạt nhân Để đạt được mục tiêu mới năm 2030 giảm 46% khí nhà kính so với năm 2013, đã đến lúc Nhật Bản đối diện trực tiếp với các vấn đề liên quan đến điện hạt nhân. Theo mục tiêu hiện tại của quốc gia này, năm 2030 điện hạt nhân dự kiến sẽ chiếm khoảng 20% tổng sản lượng điện. Để đạt được mục tiêu này, cần tái khởi động khoảng 30 lò phản ứng hạt nhân. Tuy nhiên, hiện tại, ngoài 3 lò đang xây dựng, Nhật Bản chỉ còn 33 lò phản ứng hạt nhân. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 5]: Thách thức giảm phát thải carbon Mặc dù không được biết đến nhiều, nhưng Nhật Bản có công suất (dự kiến) điện mặt trời tương ứng với diện tích lãnh thổ lớn nhất trong các quốc gia có nền công nghiệp hàng đầu thế giới (vị trí số 2 là Đức và vị trí số 3 là Anh). Tuy là đất nước có nhiều vùng núi và khá ít diện tích đồng bằng, nhưng nếu so sánh về công suất dự kiến điện mặt trời tương ứng với diện tích đồng bằng, Nhật Bản với vị trí số 1 đang gấp hơn 2 lần Đức ở vị trí số 2. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 4]: Tái khởi động nhà máy điện hạt nhân U40 Cuối tháng Năm vừa qua, Thống đốc tỉnh Fukui đã tuyên bố đồng ý tái khởi động 3 tổ máy điện hạt nhân đã vận hành trên 40 năm, gồm tổ máy số 1, 2 của Nhà máy điện hạt nhân Takahama và tổ máy số 3 của Nhà máy điện hạt nhân Mihama, thuộc Công ty Điện lực Kansai. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 3]: Vấn đề xử lý nước thải tại Fukushima số 1 Đã 10 năm trôi qua (kể từ khi xảy ra sự cố Nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1), cuối cùng, Chính phủ Nhật Bản đã cho phép xả nước đã qua xử lý đang lưu trữ ở Nhà máy này ra biển. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 2]: Nhìn lại 10 năm sau sự cố Fukushima Tháng 3/2021 vừa qua tròn 10 năm kể từ sự cố Nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 của Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO). Trong khoảng thời gian đó, Nhật Bản đã quyết định ngừng hoạt động tất cả các nhà máy điện hạt nhân. Cho đến hiện nay, chỉ có 9 lò phản ứng hạt nhân được tái khởi động lại. Nhật Bản lần đầu tiên trải qua thảm họa hạt nhân lớn như vậy, do đó cần thời gian xem xét lại các quy định. Ngoài ra, yêu cầu ứng phó sự cố cũng có sự thay đổi, nên việc tái khởi động các lò phản ứng còn lại sẽ mất thêm thời gian. |
Năng lượng Nhật Bản [Kỳ 1]: Thiếu điện và những thách thức trong cơ cấu nguồn điện Ở Nhật Bản, sự sụt giảm đột ngột của điện hạt nhân và xu hướng giảm dần sự phụ thuộc vào nhiệt điện đã mở ra cơ hội cho năng lượng tái tạo. Trong 10 năm qua, tỷ trọng của nguồn năng lượng tái tạo đã tăng gần gấp đôi, từ 9,5% vào năm 2010 lên 18% vào năm 2020. Tuy nhiên, từ ngày 7/1/2021, Nhật Bản đã bắt đầu xảy ra tình trạng thiếu hụt điện trên toàn quốc. Liên đoàn các Công ty Điện lực Nhật Bản (FEPC) đã thông báo 2 lần vào ngày 10 và 12/1 về "Tình hình cung cầu điện và đề nghị tiết kiệm điện" tại quốc gia này. Vậy, vấn đề gì đã xảy ra ở Nhật Bản? Dưới đây, chúng tôi giới thiệu nội dung phân tích của JENED về tình trạng trên để bạn đọc và các nhà quản lý, nhà đầu tư tham khảo. |
Động thái của thế giới đối với khí thiên nhiên hóa lỏng - LNG:
Trước Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) dự kiến được tổ chức tại Glasgow (Anh) vào tháng 11 năm nay, các nhà hoạt động liên quan đến vấn đề nóng lên toàn cầu vốn đang hạn chế hoạt động do vi rút Corona đã hoạt động sôi nổi trở lại. Mục tiêu của họ là chuyển từ phản đối than đá sang phản đối khí thiên nhiên. Nhưng nếu phát sinh vấn đề trong cung cấp nhiên liệu hóa thạch, Nhật Bản sẽ sớm đứng trước nguy cơ thiếu điện.
Cho đến nay, than đá và nhiệt điện than luôn được chỉ ra là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự nóng lên toàn cầu, do thải ra tương đối nhiều khí CO2. Có thể nói, khí thiên nhiên chỉ thải ra lượng khí thải bằng khoảng một nửa so với than đá, nhưng trong quá trình đốt cháy vẫn thải ra khí CO2, nên đã trở thành mục tiêu công kích tiếp theo.
Khí thiên nhiên thải ra ít CO2 hơn hẳn than đá và dầu mỏ, nên trước đây đã được kỳ vọng là một "lá bài" quan trọng trong biện pháp đối phó với sự nóng lên toàn cầu. Tuy nhiên, khi các nước có nền công nghiệp hàng đầu thế giới tuyên bố sẽ đưa mức phát thải ròng khí nhà kính xuống bằng 0 vào năm 2050, vai trò của khí thiên nhiên đã và đang được xem xét lại. Bởi để đưa mức phát thải CO2 - chiếm phần lớn khí nhà kính xuống bằng 0, thì phải hạn chế sử dụng khí thiên nhiên. Các tổ chức tài chính quốc tế cũng đang tiến hành xem xét lại việc sử dụng khí thiên nhiên.
Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB) đã quyết định cuối năm 2021 sẽ dừng cho vay đối với các dự án liên quan đến nhiên liệu hóa thạch, bao gồm khí thiên nhiên. Thống đốc EIB đã phát biểu tại một cuộc họp báo rằng: "Khí thiên nhiên đã kết thúc".
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng đang xem xét việc dừng các khoản cho vay đối với các mỏ than, nhà máy nhiệt điện than, nhà máy sản xuất khí thiên nhiên và dầu. Tháng 5 năm nay, ADB đã thông báo dự kiến sau khi trao đổi với các nước liên quan, trong năm nay sẽ tiến hành tham khảo ý kiến của hội đồng quản trị về việc dừng các khoản cho vay. Trong khi xu hướng của khí thiên nhiên thay đổi, các nhà hoạt động liên quan đến vấn đề nóng lên toàn cầu đã bắt đầu nhắm đến các nhà máy khí thiên nhiên.
Nếu khí thiên nhiên được coi là nhiên liệu không lý tưởng trong biện pháp đối phó với sự nóng lên toàn cầu, sau này, việc đầu tư vào thiết bị sản xuất và các khoản cho vay cũng mất đi (giống như than đá), thì tương lai việc cung cấp nguồn nhiên liệu LNG sẽ trở nên bất ổn. Trên thế giới, có nhiều quốc gia coi nhiệt điện khí là nguồn cung cấp điện chính, ví dụ như Nhật Bản, nhưng nếu việc cung ứng nhiên liệu bị ảnh hưởng, khả năng bị mất điện sẽ xảy ra.
Vi rút Corona đã gây ảnh hưởng lớn đến nhu cầu năng lượng của nhiều quốc gia, nên năm 2020 nhu cầu về khí thiên nhiên cũng giảm. Dự đoán từ năm 2021 nhu cầu sẽ phục hồi trở lại, trong vòng 5 năm từ năm 2020 - 2024 sẽ tăng 9% và lượng cung cũng sẽ tăng. Nhu cầu về khí thiên nhiên đang dần gia tăng như một loại nhiên liệu sạch. Tuy nhiên, sau khi các nước có nền công nghiệp hàng đầu thế giới đặt ra mục tiêu đưa mức phát thải ròng khí nhà kính xuống bằng 0 vào năm 2050, cung cầu khí thiên nhiên trong tương lai đã không còn rõ ràng. Ở Nhật Bản, nếu việc cung cấp nhiên liệu cho nhiệt điện LNG - chiếm 37% tổng lượng điện (năm 2019) bị ảnh hưởng, có thể dẫn đến nguy cơ thiếu điện.
Đối với Nhật Bản, điều quan trọng là sự thay đổi môi trường xung quanh khí thiên nhiên sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến cung cầu LNG của thế giới. Dự kiến sẽ bị Trung Quốc vượt mặt trong năm nay, nhưng Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu LNG hàng đầu thế giới. Nếu việc xây dựng các cơ sở xuất khẩu LNG bị dừng lại do áp lực từ các tổ chức phi chính phủ (NGO) về môi trường và các tổ chức tài chính, sẽ không còn sự hỗ trợ hay nói cách khác sẽ làm cho giá LNG tăng lên, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp điện và giá cả.
Mặt khác, nếu các hoạt động hướng tới việc đưa mức phát thải ròng khí nhà kính xuống bằng 0 lan rộng, thúc đẩy người tiêu dùng đột ngột tách rời khí thiên nhiên, cũng có khả năng cung - cầu sẽ đột ngột nới lỏng.
Năm 2019, trên thế giới, một loạt quyết định về việc xây dựng các cơ sở xuất khẩu LNG đã được đưa ra. Tổng số tiền quyết định đầu tư là 65 tỷ đô la, vượt hơn 7 nghìn tỷ yên và lượng xử lý đạt 95 tỷ mét khối. Ngay sau đó, số lượng dự án đầu tư mới giảm mạnh do ảnh hưởng từ chủng mới của vi rút Corona, trong năm 2020, chỉ có một dự án với quy mô 4 tỷ mét khối được quyết định đầu tư. Tuy nhiên, có thể thấy nhu cầu sẽ phục hồi, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự đoán: Từ năm 2021 hoạt động đầu tư kinh doanh vào các cơ sở xuất khẩu LNG mới sẽ phục hồi, cho đến năm 2024 mỗi năm dự báo sẽ được đầu tư khoảng 24 tỷ đô la.
Do nhu cầu tăng ở khu vực châu Á, dự đoán lượng giao dịch LNG từ năm 2020 sẽ tăng 16% và năm 2024 sẽ đạt 561 tỷ mét khối. Tương lai, các khoản đầu tư và cho vay liên quan đến khí thiên nhiên có khả năng cao sẽ bị đình trệ trong trung, dài hạn, nhưng nhu cầu về khí thiên nhiên trên thế giới cũng có khả năng cao sẽ giảm dần từ năm 2025 đến năm 2050.
Giá LNG tăng, người Nhật cảnh giác:
Hiện nay, giá khí thiên nhiên trên thế giới, bao gồm cả khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) đang có khuynh hướng tăng vọt. Các công ty điện lực Nhật Bản - những nhà tiêu dùng lớn đang tăng cường sự cảnh giác. Đặc biệt, tại Trung Quốc, lượng nhập khẩu LNG từ tháng 1 - 6 năm nay tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái - lên 39,78 triệu tấn, vượt qua lượng nhập khẩu của Nhật Bản và trở thành nhân tố chính tác động đến cung - cầu. Giá LNG tại Nhật Bản trong mùa hè năm nay đã tăng gấp đôi so với 5 năm trước. Nếu xu hướng này kéo dài, có thể dẫn đến giá điện của Nhật Bản cao hơn cho các doanh nghiệp và hộ gia đình. Điều này sẽ cản trở sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản, vốn đã bị tổn thương bởi chủng mới của vi rút Corona.
Theo Cơ quan tài nguyên dầu, khí và kim loại Quốc gia Nhật Bản (JOGMEC): Giá LNG (số liệu sơ bộ) cho các điểm đến ở Nhật Bản vào tháng 7/2021 (hợp đồng quyền chọn) là 12,2 đô la/1 triệu Btu (đơn vị nhiệt của Anh). Nếu so sánh với giá trung bình của tháng 7 năm 2017 (5 năm trước) là 6,1 đô la, thì giá cả đã tăng gấp đôi. Mức giá cao này được biết đến từ năm 2014 khi Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) bắt đầu thực hiện khảo sát.
Trong bối cảnh nhu cầu năng lượng tăng do các hoạt động kinh tế hồi phục trở lại của các quốc gia trên thế giới và việc bãi bỏ các nhà máy nhiệt điện than được đẩy mạnh do xu hướng khử Carbon, các chuyên gia năng lượng chỉ ra rằng: Việc gia tăng hoạt động của các nhà máy nhiệt điện khí do ảnh hưởng của đợt nắng nóng, hay việc Trung Quốc giảm nhập khẩu than từ Úc (do đang có xung đột), thay vào đó đang gia tăng nhập khẩu khí đốt… cũng gây ảnh hưởng đáng kể. Không giống như than, hay dầu, LNG không thể dự trữ trong thời gian dài, nên rất khó khăn vì phụ thuộc vào giá cả tại thời điểm thu mua.
Dự thảo Kế hoạch Năng lượng cơ bản của Nhật Bản đã được trình bày vào tháng 7/2021 nêu rằng: Năm 2019, LNG đã chiếm 37% trong tổng nguồn điện, nhưng năm 2030 sẽ giảm xuống còn khoảng 20%. Tổng lượng điện năm 2030 cũng được lên kế hoạch giảm khoảng 10% so với năm 2019, nên lượng LNG cắt giảm là khá lớn.
Ngoài ra, LNG còn có vai trò bổ sung điện năng ứng phó với biến động của năng lượng tái tạo, nên sau này vẫn còn rất nhiều bài toán cần giải quyết.
(Đón đọc kỳ tới...)
NGUYỄN HOÀNG YẾN (TỔNG HỢP, BIÊN DỊCH)