RSS Feed for Chính sách giá điện thế giới: Tham khảo cho trường hợp Việt Nam [kỳ 2] | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ hai 23/12/2024 02:45
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Chính sách giá điện thế giới: Tham khảo cho trường hợp Việt Nam [kỳ 2]

 - Qua phân tích mối quan hệ giữa giá điện và GDP bình quân đầu người của 6 nhóm dưới đây cho thấy, giá điện có xu hướng tăng lên theo mức tăng GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, xu hướng đó chỉ diễn ra trên góc độ phân tích theo nhóm nước được phân loại theo GDP bình quân đầu người từ thấp đến cao, còn xét theo từng nước cụ thể thì xu hướng đó không rõ ràng, thậm chí có sự mâu thuẫn (nhiều trường hợp nước giàu hơn, nhưng giá điện lại thấp hơn so với nước nghèo hơn và ngược lại).

Chính sách giá điện thế giới: Tham khảo cho trường hợp Việt Nam [kỳ 1]

KỲ 2: XEM XÉT GIÁ ĐIỆN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI GDP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI THEO CÁC NHÓM NƯỚC TỪ THẤP ĐẾN CAO


Nhóm 1: Cùng có GDP bình quân đầu người vào loại trung bình thấp (từ khoảng 2.000 - 5.000 USD) nhưng giá bán điện có sự dao động từ 2 - 10 cent/kWh (chênh nhau 5 lần),.

Cụ thể là: Ai Cập (3.515 USD): 2 cent/kWh, Iran (5.252 USD): 3 cent/kWh, U-crai-na (2.457 USD): 5 cent/kWh, Việt Nam (2.306 USD): 7 cent/kWh, Ấn Độ (1.852 USD): 8 cent/kWh, Indonesia (3.858 USD): 10 cent/kWh.

Như vậy, Ấn Độ là nước có GDP bình quân thấp nhất, nhưng có giá điện vào loại cao nhất Ngược lại, Iran có GDP bình quân cao nhất nhóm, nhưng có giá điện vào loại thấp nhất. Còn Ai Cập có GDP bình quân vào mức trung bình cao trong nhóm nhưng có giá điện thấp nhất.

Nhóm 2: Cùng có GDP bình quân đầu người ở mức trung bình cao (từ trên 6.000 - 9.000 USD), nhưng giá điện giao động từ 5 - 15 cent/kWh (chênh nhau 3 lần),.

Cụ thể là: Ka-dắc-xtan (8.585 USD): 5 cent/kWh, Trung Quốc (8.583 USD): 8 cent/kWh, Thái Lan (6.336 USD): 11 cent/kWh, Nam Phi (6.089 USD): 15 cent/kWh.

Như vậy, trong nhóm này Nam Phi có GDP bình quân thấp nhất, nhưng có giá điện cao nhất. Ngược lại, Ka-dắc-xtan có GDP bình quân cao nhất, nhưng có giá điện thấp nhất. So với nhóm trên, mức giá điện thấp nhất của nhóm này cao hơn 2,5 lần và mức giá điện cao nhất cao hơn 1,5 lần.

Nhóm 3: Cùng có mức GDP bình quân đầu người trên dưới 10.000 USD (mức cận biên giữa trung bình cao và giàu và bằng bình quân của thế giới) nhưng giá bán điện bình quân của các nước dao động từ 6 - 17 cent/kWh (chênh nhau gần 3 lần).

Cụ thể là: Ma-lai-xia (9.659 USD): 6 cent/kWh, LB Nga (10.248 USD): 6 cent/kWh, Mê-hi-cô (9.249 USD): 8 cent/kWh, Thổ Nhĩ Kỳ (10.434 USD): 9 cent/kWh, Braxin (10.019 USD): 17 cent/kWh, bình quân toàn thế giới (10.038 USD): 14 cent/kWh.

So với nhóm trên, mức giá điện thấp nhất của nhóm này cao hơn 2,5 lần và mức giá điện cao nhất cao hơn 1,5 lần.

Nhóm 4: Các nước có GDP bình quân đầu người từ 11.000 - 20.000 USD (vào loại các nước giàu) và giá điện dao động từ 5 - 17 cent/kWh (chênh nhau 3,4 lần).

Cụ thể là: Ảrập Xê-út (20.957 USD): 5 cent/kWh, Ác-hen-ti-na (14.061 USD): 10 cent/kWh, Ba Lan (13.429 USD): 17 cent/kWh.

Như vậy, trong nhóm này nước có GDP thấp nhất (Ba Lan) lại có giá điện cao nhất. Ngược lại, nước có GDP cao nhất (Ảrập Xê-út) thì có giá điện thấp nhất. So với nhóm trên, mức giá điện thấp nhất và cao nhất của nhóm này tương tự nhau.

Nhóm 5: Các nước có GDP bình quân đầu người từ 21.000 - 30.000 USD (các nước giàu bậc trung) và giá điện dao động từ 9 - 25 cent/kWh (chênh nhau 2,8 lần).

Cụ thể là: Đài Loan (24.226 USD): 9 cent/kWh, Hàn Quốc (29.730 USD): 11 cent/kWh, Tây Ban Nha (28.212 USD): 25 cent/kWh.

So với nhóm trên, mức giá điện thấp nhất của nhóm này cao hơn 1,8 lần và mức giá điện cao nhất cao hơn gần 1,5 lần.

Nhóm 6: Các nước có GDP bình quân đầu người trên 30.000 USD (các nước siêu giàu) và giá điện dao động từ 8 - 33 cent/kWh (chênh lệch nhau hơn 4,1 lần),.

Cụ thể là: U.A.E (37.346 USD): 8 cent/kWh, Canađa (44.773 USD): 10 cent/kWh, Mỹ (59.495 USD): 13 cent/kWh, Vương quốc Anh (38.847 USD): 21 cent/kWh, Hà Lan (48.271 USD): 21 cent/kWh, Ý (31.618 USD): 23 cent/kWh, Nhật Bản (38.550 USD): 26 cent/kWh, Úc (56.135 USD): 26 cent/kWh, Đức (44.184 USD): 33 cent/kWh.

So với nhóm trên, mức giá điện thấp nhất của nhóm này bằng 0,9 lần và mức giá điện cao nhất cao hơn 1,3 lần.

Trong nhóm 5 và 6 ta thấy: Cùng có mức GDP bình quân đầu người tương đương nhau, nhưng giá điện của các nước có sự cao thấp đáng kể. Ví dụ như: Hàn Quốc và Tây Ban Nha; Canađa và Đức; U.A.E, Anh và Nhật Bản; Mỹ và Úc.

Qua phân tích mối quan hệ giữa giá điện và GDP bình quân đầu người của 6 nhóm nêu trên cho thấy giá điện có xu hướng tăng lên theo mức tăng GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, xu hướng đó chỉ diễn ra trên góc độ phân tích theo nhóm nước được phân loại theo GDP bình quân đầu người từ thấp đến cao, còn xét theo từng nước cụ thể thì xu hướng đó không rõ ràng, thậm chí có sự mâu thuẫn (nhiều trường hợp nước giàu hơn, nhưng giá điện lại thấp hơn so với nước nghèo hơn và ngược lại).

Điều đó cho thấy, giá điện của các nước phụ thuộc nhiều hơn vào yếu tố khác so với yếu tố thu nhập của người dân thể hiện qua GDP bình quân đầu người. Chính sách giá điện liên quan đến mức thu nhập của người dân có thể được thể hiện thông qua giá điện được xác lập cho từng nhóm dân cư phân loại theo mức thu nhập, hoặc thông qua chính sách an sinh xã hội nằm ngoài giá điện nói riêng và giá cả năng lượng cũng như hàng hóa nói chung tùy theo cơ chế chính sách kinh tế - xã hội, cơ chế vận hành và đặc điểm nền kinh tế của từng nước.

(Kỳ tới: Xem xét giá điện trong mối quan hệ với cơ cấu kinh tế)

PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM  

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động