RSS Feed for Tổng quan điện hạt nhân thế giới và các đề xuất cho Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ ba 05/11/2024 17:24
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Tổng quan điện hạt nhân thế giới và các đề xuất cho Việt Nam

 - Sau sự cố Fukushima Daiichi xảy ra vào ngày 11/3/2011, đã có nhiều lo ngại về tương lai phát triển điện hạt nhân trên thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước đã không thay đổi chính sách của mình đối với điện hạt nhân. Một số quốc gia còn cho rằng, qua sự cố này, họ đã rút ra các bài học kinh nghiệm và thể hiện ở việc nâng cao năng lực quản lý, vận hành, thắt chặt hơn nữa vấn đề an toàn pháp quy và có những giải pháp bổ sung thực sự giúp các nhà máy điện hạt nhân nâng cao tính năng an toàn.

Điện hạt nhân còn ngân vang?
Điện hạt nhân với mục tiêu chống biến đổi khí hậu và an ninh năng lượng




LÃ HỒNG KỲ VÀ ĐỖ MINH NGỌC - HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

I. Tình hình phát triển điện hạt nhân trên thế giới

Qua đánh giá chung trên toàn cầu cho thấy, các tổ máy ĐHN dừng hoạt động là các tổ máy đã hết, hoặc gần hết thời gian sử dụng, công suất nhỏ (≈ 600MW), thế hệ cũ. Các quốc gia ĐHN cũng đã kiểm tra, bổ sung thiết bị đảm bảo an toàn, tiếp tục hoàn thiện, nối lưới các tổ máy đang xây dựng, khởi công xây dựng các tổ máy ĐHN thế hệ mới (thế hệ 3, 3+) công suất lớn hơn (≥ 1000MW), an toàn hơn.

Thống kê tăng/ giảm các tổ máy điện hạt nhân qua các năm cho ta thấy rằng, sau sự cố Fukushima từ năm 2012 đến hết năm 2018 toàn thế giới đã đóng cửa 32 tổ máy/ 21.171 MW nhưng đã hòa lưới 45 tổ máy/44.275MW đồng thời khởi công xây dựng thêm 40 tổ máy/42.597 MW.

 

TT

Năm

Số lượng Tổ máy tắt

Tổng công suất (MW)

Số lượng Tổ máy kết nối lưới

Tổng công suất (MW)

Số lượng Tổ máy bắt đầu xây dựng

Tổng công suất (MW)

1

2012

3

1.342

3

2.957

7

6.900

2

2013

6

5.403

4

4.036

10

11.312

3

2014

1

605

5

4.721

3

2.479

4

2015

7

3.863

10

9.377

8

8.359

5

2016

4

2.043

10

9.479

3

3.014

6

2017

5

2.989

4

3.305

4

4.254

7

2018

6

4.926

9

10.400

5

6.279

 

Tổng cộng

32

21.171

45

44.275

40

42.597

 

1. Số lượng lò phản ứng điện hạt nhân


Tính đến cuối năm 2018 có 35 quốc gia và vùng lãnh thổ xây dựng nhà máy ĐHN, tổng số có 450 lò phản ứng ĐHN đang vận hành, với tổng công suất lắp đặt 396.902 MW. Trong đó, Mỹ đứng đầu trên thế giới với 98 lò phản ứng với tổng công suất 99.061 MW, tiếp theo là Pháp, Trung Quốc, Nhật, Nga, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada... và 55 lò phản ứng đang xây dựng với tổng công suất 56.643 MW.

Ấn Độ và Trung Quốc là các quốc gia hạt nhân mới nổi. Hiện nay, Ấn Độ đang vận hành 22 lò phản ứng, với tổng công suất 5.308 MW, hiện đang có 7 lò phản ứng đang trong quá trình xây dựng và 24 lò đang lên kế hoạch xây dựng trong tương lai gần, dự kiến sẽ đạt 14.600 MW vào năm 2024 và 63.000 MW vào năm 2032, tiến tới cung cấp 25% sản lượng điện năng từ điện hạt nhân vào năm 2050. Trung Quốc đang vận hành 46 lò phản ứng, đang xây dựng 11 lò chiếm tỉ trọng 20% các dự án xây dựng ĐHN trên toàn thế giới.

Với mục đích giảm phát thải gây ô nhiễm môi trường từ các nhà máy điện chạy than, song song với việc phát triển năng lượng gió, mặt trời và địa nhiệt, Trung Quốc tham vọng tăng gấp 3 lần công suất phát ĐHN lên đến ít nhất 58.000 MW vào năm 2020-2021 và đạt 150.000 MW vào năm 2030. Trung Quốc đã tự chủ phần lớn trong thiết kế và xây dựng điện hạt nhân cũng như chu trình nhiên liệu. Chính sách của Trung Quốc là tăng cường xuất khẩu công nghệ hạt nhân cho các quốc gia như Pakistan, Rumania, Argentina,…

Bốn Quốc gia đang xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên: Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (4 tổ máy APR 1400 của Hàn Quốc); Belarus (2 tổ máy AES-2006 (V-491) của Nga); Bangladesh (2 tổ máy AES-2006 (V-392M) của Nga); Thổ Nhĩ Kỳ (1 tổ máy VVER V-509 của Nga) các tổ máy trên đang được xây dựng đáp ứng tiến độ.

2. Về công nghệ

Loại công nghệ đang được sử dụng chủ yếu trong các nhà máy ĐHN trên thế giới là lò áp lực (PWR). Lò áp lực chiếm 66,22% về số lượng và 71,23% về công suất điện. Tiếp theo là lò nước sôi (BWR) chiếm 16% về số lượng và 17,93% về công suất điện.

Trong năm 2018, lần đầu tiên các tổ máy ĐHN tiên tiến thuộc thế hệ 3+ (VVER-1200/AES 2006 của Nga; AP 1000 của Mỹ; EPR- 1750 của Pháp…) được đưa vào vận hành tại Nga và Trung Quốc. Đồng thời thế hệ lò 3+ cũng được tiếp tục khởi công xây dựng ở các nước: Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Nga,  Bangladesh. Thế hệ 3+ đã đáp ứng yêu cầu cao nhất về an toàn (hiện nay các lò trên thế giới đang vận hành đều là thế hệ 3 trở xuống); kết hợp một cách hợp lý các hệ thống an toàn theo nguyên lý chủ động và thụ động đảm bảo an toàn cao trong quá trình vận hành nhà máy, giảm thiểu tối đa hậu quả trường hợp xảy ra sự cố trong và ngoài thiết kế (như máy bay rơi, mất điện toàn nhà máy, ...). Trong trường hợp xảy ra sự cố cực đoan, lò phản ứng được thiết kế hệ thống bẫy vùng hoạt (core-catcher) để lưu giữ nhiên liệu nóng chảy ở đáy thùng lò và được làm mát bởi các hệ thống cấp nước thụ động. Chất phóng xạ được giữ trong đáy thùng lò, không phát tán ra môi trường.

Song song với việc phát triển các tổ máy ĐHN thương mại công suất lớn nêu trên, các nước Nga, Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng cường nghiên cứu và phát triển các công nghệ ĐHN mới như công nghệ lò phản ứng nhiệt độ cao làm mát bằng khí, lò phản ứng Neutron nhanh... các lò phản ứng cỡ nhỏ cho nhà máy ĐHN nổi.

3. Về sản lượng điện

ĐHN đóng góp quan trọng vào tổng sản lượng điện trong từng quốc gia hạt nhân. Đứng đầu là Pháp, năm 2018 tỷ lệ ĐHN chiếm tới 71,67 %; tiếp theo là Slovakia: 55,03%; Ukraina: 52,96%,... Mỹ tuy đứng đầu thế giới về số lượng tổ máy ĐHN nhưng sản lượng ĐHN chỉ đóng góp 19,32% cho sản lượng điện quốc gia.

THỐNG KÊ TỔ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN TRÊN THẾ GIỚI

TT

Quốc gia

Đang xây dựng (tổ máy)

Đang hoạt động (tổ máy)

Tổng sản lượng ĐHN năm 2018 GW.h

Tổng sản lượng điện năm 2018 GW.h

Tỷ lệ ĐHN %

1

Mỹ

2

98

807.078,00

4.177.810,00

19,32

2

Pháp

1

58

393.200,00

548.600,00

71,67

3

Nhật Bản

2

39

49.199,00

793.681

6,20

4

Nga

6

36

191.331,49

1.070.922,40

17,87

5

Trung Quốc

11

46

286.501,00

6.791.420,00

4,22

6

Hàn Quốc

5

24

127.075,00

536.951,00

23,67

7

Ấn Độ

7

22

35.388,68

1.129.886,22

3,13

8

Canada

0

19

95.037,24

638.938,72

14,87

9

Anh

1

15

59.098,00

333.458,00

17,72

10

Ukraina

2

15

84.398,06

159.350,50

52,96

11

Thụy Điển

0

8

63.849,36

158.313,00

40,33

12

Đức

0

7

71.866,45

613.100,00

11,72

13

Bỉ

0

7

26.995,63

69.212,35

39,00

14

Tây Ban Nha

0

7

53.295,00

260.906,00

20,43

15

Cộng hòa Séc

0

6

282.554,00

818.964,00

34,50

16

Đài Loan, TQ

2

4

26.656,43

233.283,20

11,43

17

Thụy sỹ

0

5

24.496,46

64.928,28

37,73

18

Phần Lan

1

4

21.889,00

67.462,00

32,45

19

Slovakia

2

4

13.788,90

25.057,17

55,03

20

Hungary

0

4

14.857,26

29.339,91

50,64

21

Argentina

1

3

6.452,97

137.830,00

4,68

22

Pakistan

2

5

9.289,66

136.485,00

6,81

23

Mexico

0

2

13.200,33

249.144,37

5,30

24

Romania

0

2

10.442,00

60.705,00

17,20

25

Nam Phi

0

2

10.563,92

225.756,09

4,68

26

Brazil

1

2

15.674,03

581.898,00

2,69

27

Bulgaria

0

2

16.125,00

46.527,00

34,66

28

Armenia

0

1

1.898,08

7.423,00

25,57

29

Iran, CH Hồi giáo

0

1

6.300,12

301.000,00

2,09

30

Hà Lan

0

1

3.340,53

106.511,00

3,14

31

Slovenia

0

1

5.361,91

15.290,30

35,07

32

Belarus

2

0

     

33

Bangladesh

2

0

     

34

Thổ Nhĩ Kỳ

1

0

     

35

Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE)

4

0

     
 

Tổng cộng

55

450

2.827.203,51

20.390.153,51

13,87


4. Chính sách phát triển ĐHN và ký kết các thỏa thuận hợp tác


Tại khu vực Đông Nam Á, CHLB Nga đang đẩy mạnh hợp tác với các nước Đông Nam Á. Trong đó, Indonesia đã ký Thỏa thuận hợp tác xây dựng ĐHN nổi với Rosatom; Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, My-an-ma đã ký Biên bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình với CHLB Nga.

Một số nước khác cũng đã ban hành chính sách và ký kết thỏa thuận cho việc xây dựng các nhà máy ĐHN đầu tiên như Ai Cập ký thỏa thuận việc tiến hành xây dựng nhà máy ĐHN với Nga. Arab Saudi cũng đã phê duyệt chương trình phát triển ĐHN, kế hoạch vận hành tổ máy đầu tiên vào năm 2027, các đối tác được chọn là Hàn Quốc, Nga, Pháp, Mỹ, Trung Quốc. Uzbekistan đã ký hiệp định với Nga về xây dựng 2 tổ máy ĐHN đầu tiên tại Uzbekistan sử dụng công nghệ VVER- 1200 dự kiến vận hành vào năm 2028. Chính phủ Ghana đưa ra mục tiêu vận hành tổ máy ĐHN đầu tiên vào năm 2029 và lựa chọ 2 đối tác là Nga và Trung Quốc. Mỹ và Mexico đã ký Hiệp định hạt nhân dân sự (Hiệp định 123) mở đường cho xuất khẩu công nghệ ĐHN của Mỹ sang Mexico…

Như vậy, sau sự cố Fukushima, theo đánh giá của IAEA, xu thế phát triển ĐHN của các nước trên thế giới vẫn ngày càng gia tăng nhằm đảm bảo cung cấp năng lượng cho phát triển kinh tế, xã hội và ngăn chặn và giảm phát thải CO2 vào khí quyển, góp phần bảo vệ môi trường.

Xem thêm bài: Xu hướng phát triển mới của điện hạt nhân trên thế giới

II. Các đề xuất về ĐHN đối với An ninh năng lượng Việt Nam

1. Ưu, nhược điểm khi xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên:

Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu xây dựng nhà máy ĐHN dựa trên các ưu điểm sau:

Thứ nhất: Đa dạng hóa nguồn năng lượng cung cấp, đảm bảo an ninh năng lượng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng của đất nước, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, nhất là khi đã khai thác hầu hết các tiềm năng về thủy điện và nhiên liệu hóa thạch; đảm bảo tính kinh tế khi cạnh tranh với các loại nhiên liệu nhập khẩu.

Thứ hai: Góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí gây ô nhiễm môi trường từ các nhiên liệu hóa thạch và có thể tạo tiềm năng thu tài chính từ việc giảm phát thải khí CO2.

Thứ ba: Đẩy mạnh phát triển tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ trong ngành năng lượng nguyên tử, ngành điện mà còn thúc đẩy nhiều ngành công nhiệp và kinh tế khác.

Thứ tư: Góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam khi từng bước làm chủ được công nghệ ĐHN.

Tuy nhiên, cũng có những khó khăn thách thức đối với quốc gia lần đầu tiên xây dựng nhà máy ĐHN:

Thứ nhất: Rào cản tâm lý lo ngại về tính an toàn của nhà máy ĐHN, nên cần có sự đồng thuận của công chúng và các quyết sách mạnh mẽ của Chính phủ.

Thứ hai: Tiềm ẩn rủi ro về an toàn hạt nhân nên cần phải thận trọng lựa chọn công nghệ tiên tiến, an toàn cao nhất và có tính kiểm chứng.

Thứ ba: Cần đảm bảo đầy đủ cơ sở hạ tầng đặc biệt là văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng phát triển đội ngũ chuyên gia về ĐHN cũng như văn hóa an toàn ĐHN.

Thứ tư: Cần nhiều thời gian chuẩn bị dự án do công nghệ phức tạp; vốn đầu tư lớn mặc dù chi phí nhiên liệu thấp, dẫn đến gặp khó khăn trong thu xếp vốn đầu tư.

2. Các điểm mốc quan trọng và công việc đã làm trong quá trình nghiên cứu và chuẩn bị cho phát triển ĐHN ở Việt Nam:

Việc phát triển ĐHN tại Việt Nam đã được xem xét lần đầu tiên tại Hội nghị TW 2 (khóa VIII) ngày 24 tháng 12 năm 1996. Hội nghị đã xác định “Chuẩn bị tiền đề khoa học cho việc sử dụng năng lượng nguyên tử sau năm 2020”. Trong Văn kiện Đại hội IX, phần Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 đã định hướng nhiệm vụ “Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử”.

Trên cơ sở định hướng của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Dự án “Nghiên cứu tổng quan phát triển nhà máy điện nguyên tử ở Việt Nam” đã được Bộ Công nghiệp trước đây chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các cơ quan liên quan lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án xây dựng ĐHN tại Việt Nam.

Định hướng quy hoạch phát triển ĐHN dài hạn tầm nhìn 2050 của nước ta nhằm đảm bảo nhu cầu điện của đất nước đã được Bộ Chính trị quyết định tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2007. Chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy ĐHN Ninh Thuận đã được Bộ Chính trị đồng ý tại Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 02 năm 2008 và Kết luận số 55-KL/TW ngày 27 tháng 09 năm 2009 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Trên cơ sở kết quả thẩm định, ngày 23 năm 10 năm 2009 Chính phủ có Tờ trình số 15/TTr-CP trình Quốc hội xin chủ trương đầu tư Dự án ĐHN Ninh Thuận với sự cần thiết đầu tư như: Đa dạng hóa nguồn năng lượng sơ cấp, tăng cường an ninh cung cấp năng lượng, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, giảm nhập khẩu nhiên liệu; Giảm phát thải khí ô nhiễm môi trường (bụi, CO2, SOx, NOx...) từ các nhiên liệu hoá thạch; Tăng cường tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật; Phù hợp với xu thế phát triển ĐHN hiện nay của khu vực và thế giới; Phù hợp với Chiến lược phát triển điện lực, Chiến lược ứng dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình, Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2025 - tầm nhìn đến 2050; Đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng cho đất nước; ĐHN có thể cạnh tranh về hiệu quả kinh tế với các loại nhà máy điện khác dùng nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.

Luật Năng lượng Nguyên tử đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008.

Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư dự án ĐHN Ninh Thuận tại Nghị quyết số 41/2009/QH12 ngày 25 tháng 11 năm 2009.

Song song với quá trình thực hiện khảo sát, thiết kế lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án xây dựng nhà máy ĐHN ở Ninh Thuận, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt nhiều Quy hoạch và Chiến lược liên quan tới phát triển ĐHN.

Trong quá trình triển khai thực hiện Dự án, do tình hình phát triển kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều thay đổi so với thời điểm quyết định đầu tư dự án. Mặt khác, Việt Nam cần nguồn vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại nhằm tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cũng như giải quyết các vấn đề do biến đổi khí hậu gây ra, chính vì vậy tại Nghị quyết 31/2016/QH14 ngày 22 tháng 11 năm 2016 Quốc hội cũng đã thông qua "Dừng thực hiện chủ trương đầu tư Dự án ĐHN Ninh Thuận".

Trước thời điểm Quốc hội thông qua Nghị quyết "Dừng thực hiện chủ trương đầu tư Dự án ĐHN Ninh Thuận" đã có một số công việc chính được tổ chức thực hiện như sau:

1/ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã trình Thủ tướng Chính phủ hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1; Báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2 đã được tư vấn quốc tế hoàn thiện và nộp cho EVN để thẩm tra. Việt Nam đã khẳng định sẽ lựa chọn công nghệ hiện đại nhất thế hệ 3+ của Nga là loại lò AES-2006 (VVER-1200/V491) cho Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 và lựa chọn hai loại công nghệ là ATMEA1 và AP1000 được để xem xét tiếp cho nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2.

2/ Bộ Khoa học - Công nghệ và Bộ Tài nguyên và Môi trường đang tổ chức thẩm định các Báo cáo phân tích an toàn, Báo cáo đánh giá tác động môi trường của các Dự án nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 và 2.

3/ Hệ thống cấp điện phục vụ thi công Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 và văn phòng làm việc của Ban quản lý dự án đang trong giai đoạn xây dựng, hoàn thiện.

4/ Dự án di dân tái định cư đã hoàn thành công tác khảo sát, thiết kế các khu tái định cư; kiểm kê, áp giá đền bù ở các vị trí sẽ thu hồi…

5/ Công tác đào tạo nguồn nhân lực:

Về đào tạo đại học và sau đại học: Thực hiện Đề án “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử” (Quyết định 1558/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ), từ năm 2010 đến 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử 362 sinh viên đi học trình độ đại học các ngành năng lượng nguyên tử (NLNT) tại Liên bang Nga; cử hơn 200 lượt cán bộ, giảng viên thuộc các trường đại học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ đại học trong lĩnh vực NLNT sang nghiên cứu chuyên sâu tại Hungary.

Về bồi dưỡng cán bộ quản lý, nghiên cứu triển khai và hỗ trợ kỹ thuật: Theo kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản lý nhà nước, nghiên cứu-triển khai và hỗ trợ kỹ thuật đến năm 2020 phục vụ phát triển ĐHN (số 1756/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ). Bộ KH&CN đã phê duyệt và triển khai Kế hoạch bồi dưỡng nhân lực phục vụ phát triển ĐHN các năm 2015, 2016 với kinh phí 25 tỷ đồng, đã tổ chức 46 khóa bồi dưỡng ở trong và ngoài nước cho khoảng 420 lượt cán bộ của các bộ, cơ quan liên quan.

Về đào tạo nhân lực cho các dự án nhà máy ĐHN tại tỉnh Ninh Thuận: Thực hiện Dự án “Đào tạo nguồn nhân lực cho các dự án nhà máy ĐHN tại tỉnh Ninh Thuận” (Quyết định số 584/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ), EVN đã cử đi đào tạo hơn 275 sinh viên cho nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 (tự đào tạo 31 người; 244 người do Bộ GD&ĐT cử đi theo Đề án 1558); Cử 28 cán bộ sang Nhật Bản đào tạo dài hạn 2 năm để trở thành cán bộ nòng cốt của nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2. Bên cạnh đó, EVN cũng đã tổ chức nhiều hội thảo trong nước cho hơn 500 lượt cán bộ, cử nhiều lượt cán bộ đi bồi dưỡng ngắn hạn về quản lý và kỹ thuật tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Nga...

6/ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phục vụ xây dựng nhà máy ĐHN:

Sau khi Luật Năng lượng Nguyên tử được thông qua. Để hướng dẫn thi hành các quy định của Luật liên quan đến ĐHN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/2010/NĐ-CP ngày 22 tháng 6 năm 2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng Nguyên tử về nhà máy ĐHN; Nghị định số 124/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2013 quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ người đi đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Trong giai đoạn 2010-2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định về cơ chế chính sách, phát triển cơ sở hạ tầng, thông tin tuyên truyền, đào tạo nhân lực, bảo đảm an ninh phục vụ phát triển ĐHN. Cũng trong thời gian này, Bộ KH&CN, Bộ Công Thương và các bộ chịu trách nhiệm triển khai dự án ĐHN đã ban hành các Thông tư để quản lý an toàn, an ninh và hiệu quả dự án điện hạt nhân. Đặc biệt trong các năm 2013-2015 sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về ĐHN (Văn bản số 248/TTg-KTN ngày 19/02/2013).

Về cơ bản, Bộ KH&CN đã ban hành đầy đủ các Thông tư để bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc thẩm định an toàn cho giai đoạn phê duyệt địa điểm và giai đoạn phê duyệt báo cáo đầu tư.

7/ Công tác thông tin tuyên truyền: Thực hiện theo Quyết định số 370/QĐ-TTg ngày 28 tháng 02 năm 2013 phê duyệt Đề án thông tin, tuyên truyền về phát triển ĐHN ở Việt Nam đến năm 2020, nội dung của Đề án nhằm tuyên truyền: Chủ trương của Đảng, chiến lược, cơ chế, chính sách của Nhà nước về phát triển ĐHN; đặc điểm, tính chất và lợi ích kinh tế xã hội của ĐHN; sự cần thiết phát triển ĐHN và xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển ĐHN ở Việt Nam; Dự án ĐHN Ninh Thuận và các cơ chế, chính sách di dân, tái định cư, đào tạo nguồn nhân lực, thu hút lao động.  

Các hoạt động triển khai Chương trình thông tin, tuyên truyền về phát triển ĐHN của Đề án do Bộ KH&CN chủ trì được các bộ, ngành, địa phương triển khai bao gồm việc tổ chức các hội thảo, tọa đàm, tập huấn, xuất bản các tài liệu, ấn phẩm về ĐHN; đăng tải các bài viết, xây dựng chương trình, chuyên mục về ĐHN trên các phương tiện thông tin đại chúng… EVN cũng tích cực triển khai các hoạt động thông tin, tuyên truyền của chủ đầu tư về dự án ĐHN theo kế hoạch đề ra; tổ chức các hoạt động tuyên truyền, ủng hộ người dân tại địa phương, đặc biệt là vùng dự án và đã đem lại những kết quả nhất định cho công chúng địa phương từ nguồn kinh phí của dự án.

8/ Hợp tác quốc tế: Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế quan trọng nhất trong lĩnh vực hạt nhân; chỉ trong giai đoạn 10 năm từ năm 2006, Việt Nam đã gia nhập/ký mới 5 điều ước quốc tế, tham gia 2 sáng kiến về an ninh hạt nhân.

Về hợp tác với IAEA đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng ĐHN, bảo đảm an toàn, an ninh và không phổ biến hạt nhân. Từ năm 2015 đến nay, Bộ KH&CN đã phối hợp với IAEA triển khai các dự án hợp tác kỹ thuật, đặc biệt về phát triển cơ sở hạ tầng ĐHN tư vấn hỗ trợ, nâng cao năng lực cán bộ của các bộ, ngành trong việc triển khai các nhiệm vụ đã được giao.

Về hợp tác song phương: Các bộ, ngành đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia đối tác (LB Nga và Nhật Bản) và các quốc gia có kinh nghiệm trong phát triển ĐHN như Hoa Kỳ, Pháp,… Từ năm 2015 đến nay, nhiều thỏa thuận hợp tác cấp bộ và thỏa thuận giữa các cơ quan của Bộ KH&CN với các đối tác LB Nga, Pháp, Hoa Kỳ đã được ký kết nhằm tăng cường hợp tác trong phát triển nguồn nhân lực và thông tin tuyên truyền cho ĐHN.

3. Các đề xuất và kiến nghị:

Trước thực trạng nhu cầu năng lượng nói chung và điện năng nói riêng tiếp tục tăng trưởng. Các nguồn năng lượng truyền thống có hạn đang tiến dần đến cạn kiệt, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng. Nhiều dự án nguồn điện lớn chậm tiến độ, hoặc chưa được triển khai do chưa tạo được đồng thuận của nhân dân. Mặc dù các nguồn năng lượng tái tạo khác như: năng lượng gió, mặt trời… đã được ưu tiên, quan tâm phát triển nhưng không thể bù đắp sự thiếu hụt điện năng, gây rủi ro cao cho ngành điện.

Căn cứ tình hình thực tế đã triển khai dự án ĐHN Ninh Thuận như trên, căn cứ vào sự phát triển của ĐHN trên thế giới, các chuyên gia ngành hạt nhân và ngành năng lượng kiến nghị:

1. Đề nghị Tạp chí Năng lượng Việt Nam tiếp tục đăng tải các chuyên đề, tổng hợp các ý kiến các chuyên gia, báo cáo với Chính phủ trình Bộ Chính trị tiếp tục đưa ĐHN vào trong định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia thay thế Nghị quyết 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2007, làm cơ sở Phê duyệt chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và xây dựng Quy hoạch điện VIII.

2. Kiến nghị Chính phủ giữ các địa điểm Phước Dinh (Ninh Thuận 1) và Vĩnh Hải (Ninh Thuận 2) tại Ninh Thuận cho việc phát triển ĐHN trong tương lai, vì hiện nay vấn đề cung cấp điện năng đang là nhiệm vụ lớn, quan trọng, cần đi trước một bước, đặc biệt các nguồn điện chạy phụ tải cơ sở (chỉ có thể là thuỷ điện công suất lớn, nhiệt điện và ĐHN).

Rà soát lại các địa điểm còn lại (6 địa điểm trong 8 địa điểm đã được quy hoạch tại Quyết định số 906/QĐ-TTg ngày 17 tháng 6 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ), đây là những địa điểm đã được xem xét so sánh, vì vậy cần phải có kế hoạch sử dụng cụ thể sao cho phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, địa phương có quy hoạch dự án.

3. Công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ĐHN đã tương đối đủ cho công tác thẩm định và phê duyệt địa điểm xây dựng nhà máy. Trong thời gian tới cần chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu xây dựng, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác xây dựng nhà máy ĐHN như sửa đổi Luật Năng lượng Nguyên tử và các văn bản liên quan khác…

4. Có cơ chế, chính sách cho sinh viên tốt nghiệp đào tạo các chuyên ngành ĐHN trở về nước, đặc biệt chú trọng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi trở lên được đào tạo nâng cao. Đây là nguồn nhân lực có giá trị cho các tổ chức nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, cho các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân. Từ đó có thể chuẩn bị cho các chương trình dài hạn và chủ động ứng phó trước mắt với các vấn đề hạt nhân khu vực và quốc tế. Mặt khác, cần nghiên cứu, xây dựng lại kế hoạch đào tạo dài hạn nhân lực cho chương trình phát triển ĐHN.

5. Cần tiếp tục tuyên truyền về ĐHN, làm cho nhân dân hiểu đúng về chủ trương dừng ĐHN; cung cấp thông tin đầy đủ và thường xuyên cho công chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện tạo dư luận khác, sao cho thúc đẩy sự hiểu biết rộng rãi về sự cần thiết và lợi ích của ĐHN, tạo sự ủng hộ của công chúng, cho chương trình phát triển ĐHN.

6. Tiếp tục duy trì quan trắc về động đất tại khu vực dự kiến xây dựng nhà máy ĐHN dựa trên cơ sở dữ liệu đã được xây dựng và kinh nghiệm đã có; sớm triển khai xây dựng mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia, hoàn chỉnh bản đồ phông phóng xạ tự nhiên, sẵn sàng chủ động hỗ trợ ứng phó kịp thời sự cố bức xạ và sự cố hạt nhân do các nguồn phát xạ tiềm năng từ bên ngoài biên giới nước ta…

Xem thêm bài Tại sao Việt Nam cần điện hạt nhân? 

 

Tài liệu tham khảo

http://vpcp.chinhphu.vn/Home/Hop-bao-Chinh-phu-chuyen-de-ve-Du-an-dien-hat-nhan/201611/20334.vgp.

https://pris.iaea.org/PRIS/

 

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động