Tóm tắt kết quả làm việc của IAEA tại Hà Nội và khuyến nghị, đề xuất các hành động tiếp theo
07:34 | 12/12/2025
Trong bối cảnh nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và yêu cầu giảm phát thải khí nhà kính trở thành ưu tiên toàn cầu, nhiều quốc gia đang tái khẳng định vai trò của điện hạt nhân như một giải pháp chiến lược bảo đảm an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Việt Nam, với tiềm năng tăng trưởng và vị thế trong khu vực, cũng đang từng bước tái khởi động Chương trình điện hạt nhân quốc gia sau thời gian tạm dừng. Trên cơ sở hướng dẫn của IAEA và tham chiếu kinh nghiệm quốc tế, bài viết dưới đây của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam sẽ trả lời 2 câu hỏi then chốt: Chương trình điện hạt nhân là gì và gồm những thành tố nào? Một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng đặc thù của chương trình điện hạt nhân nên được hiểu và chuẩn bị như thế nào trong điều kiện Việt Nam? |
Ngày 10 tháng 2 năm 2025, Việt Nam đề nghị IAEA thực hiện nhiệm vụ Đánh giá cơ sở hạ tầng hạt nhân tích hợp - INIR (giai đoạn 2). Báo cáo tự đánh giá ban đầu (SER) đã được nộp cho IAEA vào ngày 15 tháng 7 năm 2025. Một nhiệm vụ hỗ trợ SER kết hợp với nhiệm vụ tiền INIR đã được tiến hành từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 9 năm 2025. Việt Nam đã nộp báo cáo SER cuối cùng (bao gồm các tài liệu hỗ trợ) cho IAEA vào ngày 15 tháng 10 năm 2025. Nhiệm vụ INIR được tiến hành từ ngày 1 đến ngày 11 tháng 12 năm 2025, tại Hà Nội.
![]() |
| Ông Lê Xuân Định - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ phát biểu tại buổi làm việc với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA). Ảnh: Vietnamnet. |
Nhiệm vụ INIR, cũng như các hoạt động liên quan được tài trợ thông qua các khoản đóng góp ngoài ngân sách và dự án Hợp tác kỹ thuật (TC) VIE1011 của IAEA “Nâng cao năng lực quốc gia về thiết kế và phân tích an toàn cho lò phản ứng nghiên cứu đa năng công suất cao mới”.
Ông Lê Xuân Định - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã có bài phát biểu khai mạc đợt làm việc của INIR lần này. Về phía Việt Nam, có sự tham gia điều phối của bà Trần Bích Ngọc - Cán bộ Liên lạc Quốc gia Việt Nam, Phó Cục trưởng Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân (VARANS). Đoàn INIR do ông Eric Mathet thuộc Ban Phát triển cơ sở hạ tầng hạt nhân (NIDS) của IAEA dẫn đầu, cùng các chuyên gia IAEA và các chuyên gia quốc tế được IAEA mời. Bà Aline Des Cloizeaux - Giám đốc Ban Điện hạt nhân thuộc Vụ Năng lượng Hạt nhân của IAEA đã trình bày bản dự thảo báo cáo sơ bộ và có bài phát biểu bế mạc đợt làm việc cùng với ông Lê Xuân Định.
Đợt làm việc của đoàn khảo sát INIR cùng với phía Việt Nam đã diễn ra trong bầu không khí hợp tác, cởi mở và chân thành. Đoàn khảo sát INIR kết luận rằng: Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng để khởi động lại và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận, cũng như phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết. Nhiều biện pháp và quyết định đã được thông qua ở tất cả các cấp (bao gồm Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và cơ quan liên quan). Việt Nam đã thiết lập khung pháp lý hỗ trợ chương trình điện hạt nhân, cũng như các cơ chế đặc biệt để tạo điều kiện thuận lợi cho các thỏa thuận tài chính và hợp đồng cho dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2. Một số nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn 2009-2016 hiện đang được cập nhật để hỗ trợ chương trình.
Để hỗ trợ Việt Nam tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, đoàn khảo sát INIR đã đưa ra 38 khuyến nghị và 13 đề xuất. Đoàn khảo sát INIR cũng đã xác định hai kinh nghiệm tốt có thể mang lại lợi ích cho các quốc gia khác đang xem xét việc đưa điện hạt nhân vào hoạt động.
Do bối cảnh quốc gia hiện nay đã thay đổi đáng kể (kể từ khi chương trình bị tạm hoãn vào năm 2016), nên các phát hiện từ phái đoàn lần này khác với các phát hiện của phái đoàn INIR (giai đoạn 2) được thực hiện vào năm 2012.
Dựa trên các khuyến nghị và đề xuất, các lĩnh vực trọng điểm cần hành động tiếp theo được tóm tắt dưới đây:
Việt Nam cần tiếp tục rà soát và tăng cường khung pháp lý, pháp quy của mình:
1. Việt Nam đã ban hành luật hạt nhân toàn diện: Luật Năng lượng Nguyên tử 2025. Việt Nam là thành viên của hầu hết các công ước quốc tế có liên quan và đang xem xét tham gia công ước trách nhiệm hạt nhân. Việt Nam nên tiếp tục hướng dẫn thi hành (further enhance) Luật Năng lượng Nguyên tử 2025 theo hướng thành lập một cơ quan pháp quy độc lập, tách biệt với các cơ quan thúc đẩy phát triển ứng dụng năng lượng hạt nhân, và đảm bảo cơ quan này có thẩm quyền và nguồn lực để thực hiện trách nhiệm của mình. Hệ thống pháp quy (the law) cũng cần xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức liên quan và tăng cường các điều khoản về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân.
2. Cần hoàn thiện khung pháp quy của mình để bao gồm tất cả các yêu cầu cần thiết cho giai đoạn 2 và đầu giai đoạn 3 của chương trình điện hạt nhân, đặc biệt là những yêu cầu cần thiết cho việc đàm phán hợp đồng. Việt Nam cũng cần tăng cường khuôn khổ an ninh hạt nhân bằng cách giải quyết vấn đề đánh giá mối đe dọa quốc gia và hoàn thiện quy trình phát triển Mối đe dọa cơ sở thiết kế (Design Basis Threat).
Việt Nam cần hoàn tất công tác chuẩn bị cần thiết cho giai đoạn ký kết hợp đồng và xây dựng:
1. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN) cần hoàn tất việc thiết lập cơ cấu tổ chức, kịp thời đưa vào các chức năng vận hành cần thiết, cập nhật các nghiên cứu tiền khả thi hiện có và xây dựng các nghiên cứu khả thi cụ thể cho dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2. EVN và PVN cần rà soát lại Báo cáo đánh giá tác động môi trường, Hồ sơ phê duyệt địa điểm, xây dựng hệ thống quan trắc môi trường cho các địa điểm Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2, và đưa các đặc điểm môi trường của địa điểm vào các yêu cầu của hợp đồng chính.
2. Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân (VARANS), EVN, PVN cần đánh giá kỹ lưỡng và rà soát lại các hệ thống quản lý hiện có, đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn an toàn của IAEA.
3. Cần rà soát năng lực công nghiệp quốc gia, đặt ra các mục tiêu nội địa hóa, cũng như xây dựng chương trình tăng cường sự tham gia trong nước vào xây dựng nhà máy điện hạt nhân và chế tạo thiết bị.
4. Cần kịp thời hoàn tất việc rà soát khung tài chính quốc gia để xác định các yêu cầu về nguồn vốn và thiết lập các cơ chế vững chắc cho việc thực hiện chương trình điện hạt nhân.
Việt Nam cần ưu tiên phát triển năng lực nguồn nhân lực:
1. Cần phê duyệt và đảm bảo thực hiện các kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của tất cả các tổ chức chủ chốt (Bộ Khoa học và Công nghệ - MST, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam - VINATOM, VARANS, EVN, PVN và các đơn vị khác). Các kế hoạch này cần bao gồm các nhu cầu về tuyển dụng, giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng, dựa trên phân tích có hệ thống về kiến thức, kỹ năng cần thiết để các tổ chức tương ứng thực hiện vai trò của mình, theo quy định của các văn bản pháp quy có liên quan.
Vì nguồn nhân lực là yếu tố thiết yếu đối với tất cả các tổ chức, Việt Nam cần tích hợp và phối hợp các kế hoạch này ở cấp quốc gia để đảm bảo phân bổ hiệu quả và tối ưu.
2. Cần tăng cường năng lực nguồn nhân lực của VARANS để đảm bảo chức năng pháp quy hiệu quả trong giai đoạn 2 và đầu giai đoạn 3.
Việt Nam cần tăng cường nỗ lực phối hợp và cải thiện sự tham gia của các bên liên quan:
1. Cần tăng cường điều phối tập trung chương trình điện hạt nhân, đảm bảo thông tin liên lạc hiệu quả giữa tất cả các tổ chức và các bên liên quan (bao gồm cả công chúng) để đảm bảo tính nhất quán và tối ưu hóa. Đặc biệt, điều này cần bao gồm việc tích hợp, phối hợp các kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, nội địa hóa và sự tham gia của các bên liên quan.
2. Cần xây dựng các kế hoạch tham gia của các bên liên quan ở cấp quốc gia và tổ chức dựa trên “Đề án thông tin và truyền thông về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế, xã hội” sau khi được phê duyệt.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ (MST) và VARANS cần xây dựng một cơ chế làm việc giữa cơ quan pháp quy và chủ đầu tư/tổ chức vận hành.
3. Cần củng cố các chính sách và chiến lược quốc gia về chu trình nhiên liệu hạt nhân, cũng như quản lý chất thải phóng xạ.
4. Việt Nam cần xây dựng chiến lược quốc gia thống nhất về cung cấp nhiên liệu hạt nhân (giai đoạn đầu), chính sách, chiến lược toàn diện về quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và chất thải phóng xạ (giai đoạn cuối), cũng như các mục tiêu, yêu cầu quốc gia rõ ràng về việc tháo dỡ các cơ sở hạt nhân./.
BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

