RSS Feed for Thị trường năng lượng Việt Nam: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 4) | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Chủ nhật 22/12/2024 23:13
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Thị trường năng lượng Việt Nam: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 4)

 - Để đáp ứng nhu cầu than, Quy hoạch 60 đã đề ra chủ trương nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than đưa về nước. Tuy nhiên, việc nhập khẩu than dài hạn với khối lượng hàng chục triệu đến hơn trăm triệu tấn/năm là vô cùng khó khăn do nguồn cung than ngày càng hạn chế trong khi nhu cầu than của các nước ngày càng tăng với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường.

>> Thị trường năng lượng Việt Nam: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 1)
>> Thị trường năng lượng Việt Nam: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 2)
>> Thị trường năng lượng Việt Nam: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 3)

PGS,TS. NGUYỄN CẢNH NAM

Hiện trạng

Sản lượng than tiêu thụ trong nước đã có sự tăng lên đáng kể từ mức 10 triệu tấn năm 2002 lên khoảng 28 triệu tấn năm 2013, trong đó chủ yếu là than sản xuất trong nước 27,5 triệu tấn (chiếm 98,2%), than nhập khẩu chỉ khoảng 0,5 triệu tấn (chiếm 1,8%): gồm than mỡ khoảng hơn 100 ngàn tấn dùng cho luyện kim và than subbitum (than nồi hơi hoặc than năng lượng) khoảng 400 ngàn tấn dùng cho sản xuất điện ở miền Nam.

Sự chênh lệch này xuất phát từ nguồn cung than trong nước khá dồi dào, có giá cạnh tranh hơn than nhập khẩu. Tuy nhiên, theo nhận định mối tương quan này đang ngày càng mất dần.

Là tập đoàn kinh tế nhà nước được giao nhiệm vụ chính trong việc khai thác và cung ứng than cho nền kinh tế, cho đến nay TKV là nhà cung cấp than chủ yếu trên thị trường than trong nước (chiếm tới 98%), đồng thời cũng là nhà xuất khẩu than duy nhất.

Vừa qua, thực hiện chủ trương tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn, tổng công ty nhà nước, Tổng công ty Đông Bắc - một công ty con của TKV được tách ra khỏi TKV và trở thành tổng công ty độc lập do Bộ Quốc phòng quản lý.

Như vậy, từ năm 2014, ngoài TKV sẽ có các đơn vị khai thác, cung cấp than cho thị trường trong nước gồm Tổng công ty Đông Bắc, Tổng công ty 319 (đều là của Bộ Quốc phòng), Vietmindo (doanh nghiệp FDI) và một số đơn vị khác đã và sẽ được cấp phép khai thác than cùng hoạt động trên địa bàn Quảng Ninh. Hiện nay, ngoài TKV, các Tập đoàn PVN, EVN... đã và đang thành lập các công ty nhập khẩu than từ nước ngoài. Ngoài ra, các công ty nước ngoài cũng sẽ chủ động xuất khẩu than vào Việt Nam khi nhu cầu than vượt quá khả năng khai thác trong nước và có giá cạnh tranh hơn.

Như vậy, sắp tới trên thị trường than sẽ có sự sôi động nhất định vì có sự cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Về cơ chế giá than

Theo Pháp lệnh giá ban hành năm 2002, than là mặt hàng không thuộc diện bình ổn giá. Việc định giá than do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh than thực hiện theo cơ chế thị trường.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, do than là đầu vào chính của một số mặt hàng thuộc Danh mục hàng hoá thực hiện bình ổn giá như: xi măng, sắt thép, phân bón cũng như là đầu vào của điện-mặt hàng do Nhà nước định giá. Nên trên thực tế giá than vẫn do Nhà nước quản lý. Việc xác định và điều chỉnh giá than phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc phê duyệt, nhất là đối với giá than bán cho các hộ sản xuất điện, xi măng, phân bón và giấy.

Cụ thể là tại Quyết định số 20/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam giai đoạn 2003-2010 có xét triển vọng đến năm 2020” đã yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan căn cứ vào từng thời kỳ, tình hình sản xuất và tiêu thụ than, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định giá bán than hợp lý cho bốn hộ tiêu thụ than lớn: điện, xi măng, giấy và đạm theo nguyên tắc bù đắp đủ chi phí sản xuất hợp lý để tiến tới thực hiện giá bán than theo cơ chế thị trường vào năm 2006”. Dù vậy, đến năm 2012 trong Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030” vẫn nêu ngành than tiếp tục thực hiện lộ trình điều chỉnh giá bán than cho các hộ sử dụng trong nước theo cơ chế thị trường.

Chính vì vậy, đến năm 2013, giá than bán cho bốn ngành tiêu thụ than lớn: điện, xi măng, giấy và đạm, nhất là đối với hộ điện vẫn thấp hơn giá thành. Ngành than buộc phải tăng cường xuất khẩu than để lấy lợi nhuận từ xuất khẩu bù đắp chi phí cho phần than bán cho 4 ngành nêu trên và đầu tư phát triển mở rộng sản xuất. Đây là nguyên nhân chính làm cho sản lượng than xuất khẩu tăng cao trong thời gian qua, thậm chí trong nhiều năm, sản lượng than xuất khẩu vượt xa sản lượng than tiêu thụ trong nước khiến định hướng “có một phần hợp lý xuất khẩu để điều hòa về số lượng, chủng loại và tạo nguồn ngoại tệ” không thực hiện được.

Hiện nay, theo quy định của Luật giá (2012) và Nghị định 177/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giá thì than chỉ thuộc diện hàng hóa phải kê khai giá, còn giá than vận hành theo cơ chế thị trường. Việc kê khai giá than do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh than thực hiện theo quy định của Nghị định 177/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014.

Như vậy, giá than đã thực sự vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành than nói chung, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh than nói riêng tiết kiệm chi phí, khai thác tận thu tài nguyên, chủ động phương án kinh doanh theo hướng có hiệu quả cao nhất để tăng cường tích lũy cho đầu tư phát triển, mở rộng quy mô sản lượng, đáp ứng nhu cầu than trong nước ngày càng tăng cao. Từ đó, buộc các ngành tiêu thụ than sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất, kinh doanh than.

Một số vấn đề chính về thị trường than trong thời gian tới

Theo dự báo trong Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg, thì nhu cầu than trong nước thời gian tới sẽ tăng rất cao. Theo phương án cơ sở thì cụ thể:

TT

Hộ tiêu thụ

2015

2020

2025

2030

1

Tổng số (106T)

56,2

112,3

145,5

220,3

1.1

Các ngành khác

22,6

29,5

32,8

39,0

1.2

Nhiệt điện

33,6

82,8

112,7

181,3

 

Như vậy, so với mức tiêu thụ năm 2013 đến năm 2015 nhu cầu than trong nước sẽ tăng gấp 2 lần, đến năm 2020 tăng gấp 4 lần và đến năm 2030 tăng gấp 8 lần.

Nếu dựa theo những số liệu dự báo nhu cầu than trong hai năm trước đây thì có thể thấy những dự báo trên đây là quá cao. Ví dụ, năm 2012 dự báo nhu cầu là 32,9 triệu tấn, thực tế chỉ là 25,3 triệu tấn, bằng 76,9%; năm 2013 dự báo nhu cầu là 38,3 triệu tấn, thực tế khoảng 28 triệu tấn, bằng 73,1%.

Nguyên nhân chủ yếu làm cho nhu cầu than thực tế giảm so với dự báo là 2 năm vừa qua do nguồn nước nhiều nên thủy điện huy động tăng lên. Cùng với đó, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nên nhu cầu điện cũng giảm so với dự báo. Nhưng ngay cả khi nhu cầu than thực tế chỉ bằng khoảng 80% nhu cầu dự báo thì cũng đã là rất cao. Khi đó nhu cầu than đến năm 2015 sẽ là 45 triệu tấn, tăng so với năm 2013 là 17 triệu tấn (bình quân mỗi năm tăng 8,5 triệu tấn, bằng sản lượng của 4 mỏ hầm lò cỡ lớn) và đến năm 2020 là 90 triệu tấn, tăng so với năm 2013 là 62 triệu tấn (bình quân mỗi năm tăng 12,4 triệu tấn, bằng sản lượng của 6 mỏ hầm lò cỡ lớn). Rõ ràng mức tăng đó là quá cao so với tiến độ xây dựng các mỏ than mới và vấn đề đặt ra là khả năng nâng cao sản lượng than trong nước sẽ như thế nào trong thời gian tới.

Nguồn cung ứng than trong nước gặp nhiều khó khăn

Thứ nhất, tài nguyên than đã được thăm dò có khả năng huy động vào khai thác bị suy giảm và mức độ tin cậy thấp. Theo Báo cáo của TKV, ngày 16/12/2013 về tình hình thực hiện Quy hoạch phát triển than đã được phê duyệt theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg (Quy hoạch 60) thì tổng trữ lượng và tài nguyên bể than Đông Bắc và vùng Nội địa giảm 1.875.988 ngàn tấn (giảm 20,8%) so với Quy hoạch 60, do việc cập nhật tài nguyên, trữ lượng theo Báo cáo kết quả giai đoạn 1 Đề án “Điều tra, đánh giá tiềm năng than dưới mức -300m, bể than Quảng Ninh” đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt trước đó.

Như vậy, chỉ sau 1 năm phê duyệt Quy hoạch 60, trữ lượng than đã “bốc hơi” gần 2 tỉ tấn do mức độ tin cậy thấp của số liệu báo cáo thăm dò. Tính đến 31/12/2013, tổng trữ lượng và tài nguyên bể than Đông Bắc và vùng Nội địa còn lại là 6.933.125 ngàn tấn, trong đó phần tài nguyên đạt cấp trữ lượng rất thấp, chỉ khoảng 30%. Ngoài ra, việc khai thác bể than Đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) hiện chưa rõ về công nghệ và giải pháp bảo vệ môi trường, ngay cả khả năng khai thác thử nghiệm theo dự kiến cũng bị lùi lại. Hiện còn chưa biết sẽ làm ở địa điểm nào và khi nào bắt đầu.

Thứ hai, khả năng nâng cao sản lượng khai thác bị hạn chế và giảm so với Quy hoạch đã được duyệt. Theo Quy hoạch 60, sản lượng than thương phẩm dự kiến đến năm 2030 (triệu tấn) như sau:

TT

P/a sản lượng

2015

2020

2025

2030

I

P/a không có than ĐBSH

57,4

62,3

68,1

65,6

II

P/a có than ĐBSH

57,4

62,8

70,0

75,7

 

- Đồng bằng Sông Hồng

0

0,5

1,9

10,1

 

Nhưng đến thời điểm này có thể khẳng định, việc khai thác than ở ĐBSH trong giai đoạn này là chưa thể thực hiện được. Do vậy, mức sản lượng tối đa đến năm 2025-2030 theo Quy hoạch 60 có thể đạt chỉ là khoảng 65 triệu tấn.

Tuy nhiên, theo báo cáo của TKV về tình hình thực hiện Quy hoạch 60 sau khi rà soát lại tình hình tài nguyên, trữ lượng than thì khả năng tối đa chỉ đạt sản lượng than thương phẩm khoảng 55 triệu tấn/năm, hụt so với Quy hoạch 60 khoảng 10 triệu tấn.

Như vậy, so sánh nhu cầu dự báo và khả năng khai thác trong nước cho thấy từ năm 2015 sẽ thiếu than và đến năm 2020 tối đa chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu, đặc biệt than cho sản xuất điện sẽ thiếu trầm trọng. Ước tính đến năm 2015 thiếu khoảng 3 triệu tấn và đến năm 2020 ít nhất thiếu hơn 40 triệu tấn, bằng tổng sản lượng than toàn ngành năm 2013.

Thứ ba, nhu cầu vốn đầu tư tăng cao. Theo tính toán trong Quy hoạch 60, tổng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện trong giai đoạn 2012 - 2030 là 690.875 tỷ đồng, bình quân là 36.362 tỷ đồng mỗi năm, trong đó đầu tư mới 29.797 tỷ đồng và đầu tư duy trì công suất là 6.565 tỷ đồng. Nếu không tính đến vốn đầu tư khai thác than ĐBSH thì bình quân mỗi năm cần khoảng hơn 32 ngàn tỷ đồng (tương đương khoảng 1,5 tỷ USD/năm), riêng đầu tư mới khoảng 26 ngàn tỷ đồng/năm. Trong khi đó, tổng nguồn vốn chủ sở hữu của TKV (bao gồm cả Tổng công ty Đông Bắc) đến năm 2013 chỉ có khoảng 32 ngàn tỷ đồng, riêng sản xuất than chỉ khoảng hơn 18 ngàn tỷ đồng.

Theo quy định của Luật Khoáng sản để được cấp phép hoạt động khoáng sản vốn của chủ sở hữu tối thiểu phải bằng 30% tổng mức đầu tư đối với hoạt động khai thác và 50% đối với công tác thăm dò. Với nhu cầu vốn đầu tư mới là 26 tỷ đồng/năm thì mỗi năm vốn chủ sở hữu phải có ít nhất khoảng 7,8 ngàn tỷ đồng. Trong khi đó, với tổng vốn chủ sở hữu của sản xuất than hiện có thì vốn đầu tư từ nguồn khấu hao cơ bản hàng năm chỉ có khoảng 1,8 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng khoảng 23% mức vốn quy định. Còn nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sau thuế để lại cho doanh nghiệp (tức là quỹ đầu tư phát triển trích lập từ lợi nhuận sau thuế), nếu có cũng rất hạn hẹp vì hiệu quả sản xuất than ngày càng giảm do giá bán than giảm, trong khi giá thành tăng cao. Hơn nữa, theo quy định mới thì quỹ đầu tư phát triển chỉ được trích lập tối đa bằng 30% lợi nhuận sau thuế. Như vậy, nguồn vốn đầu tư cho phát triển than trong thời gian tới sẽ thiếu trầm trọng so với nhu cầu đầu tư.

Lẽ ra, trong bối cảnh đó phải có chính sách, biện pháp và hình thức thích hợp để thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế thì hiện đang có biểu hiện của tình trạng cấp phép khai thác than tràn lan, kể cả cho những tổ chức, cá nhân không đủ năng lực theo quy định. Cần lưu ý rằng, thời điểm này điều kiện tài nguyên không còn thuận lợi để khai thác theo kiểu “bóc ngắn cắn dài”, tàn phá môi trường. Mà việc khai thác phải chuyển sang khai thác lộ thiên xuống sâu dưới mực nước biển với hệ số bóc đất đá thậm chí trên 15m3/tấn hoặc phải khai thác hầm lò trong điều kiện có nguy cơ cao về cháy nổ, bục nước, sập đổ lò... đòi hỏi phải có công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, đội ngũ cán bộ chuyên gia trình độ cao, công nhân kỹ thuật lành nghề, giàu kinh nghiệm và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tận thu tài nguyên, an toàn và bảo vệ môi trường.

Thứ tư, giá thành khai thác tăng cao, chủ yếu do các nguyên nhân sau:

Do phần trữ lượng than có điều kiện khai thác thuận lợi, giá thành thấp đã cạn kiệt, phải chuyển sang khai thác phần trữ lượng than có điều kiện khai thác khó khăn, phức tạp, giá thành tăng cao. Ở các mỏ lộ thiên trước đây có hệ số bóc đất đá bình quân vào khoảng 4-5 m3/tấn than và cung độ vận chuyển đất đá khoảng 2-3 km, thì nay hệ số bóc đất đá đã tăng lên trên 10 m3/tấn, thậm chí lên đến 15 m3/tấn và cung độ vận chuyển bình quân lên đến 4-5 km. Dự báo trong tương lai sẽ còn tăng hơn nữa. Trước đây, tỷ lệ sản lượng khai thác hầm lò chỉ vào khoảng 30-35% thì nay đã tăng lên trên 50% và sắp tới lên khoảng 70%. Hơn nữa, điều kiện khai thác hầm lò cũng khó khăn, phức tạp hơn khi xuống sâu có nhiều rủi ro về nổ khí, bục nước, cháy lò, sập lò... Ngoài ra, phần trữ lượng than có chất lượng tốt, giá bán cao cạn kiệt dần, trong khi phần trữ lượng than chất lượng thấp, giá bán thấp tăng cao.

Chính sách thuế, phí của Nhà nước đối với khoáng sản nói chung và đối với than nói riêng ngày càng tăng cao làm cho giá thành than tăng cao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường, thuế môn bài, thuế nhà đất…

Các loại phí bao gồm: phí bảo vệ môi trường, nước thải, lệ phí cấp giấy phép thăm dò, lệ phí cấp phép khai thác, hoàn trả chi phí điều tra cơ bản địa chất, ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường. Thêm vào đó là tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Đây là một khoản thu mới theo quy định của Luật Khoáng sản. Theo Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013 Quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, đối với than khoản thu này ước tính bằng khoảng 1/3 mức thuế tài nguyên. TKV hàng năm phải nộp thêm khoản tiền này khoảng trên 1 ngàn tỷ đồng.

Những vấn đề nêu trên không những làm giảm hiệu quả kinh doanh than, mà còn tác động tiêu cực đến việc khai thác tận thu tài nguyên. Than là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo và hữu hạn, đối với nước ta tài nguyên than cũng không phải là dồi dào, lẽ ra trong bối cảnh đó thay vì chính sách thu thuế, phí cao Nhà nước phải có chính sách khuyến khích tận thu tối đa tài nguyên than để góp phần đáp ứng nhu cầu.

Nguồn than nhập khẩu còn nhiều ẩn số

Để đáp ứng nhu cầu than, Quy hoạch 60 đã đề ra chủ trương nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than đưa về nước. Tuy nhiên, việc nhập khẩu than dài hạn với khối lượng hàng chục triệu đến hơn trăm triệu tấn/năm là vô cùng khó khăn do nguồn cung than ngày càng hạn chế trong khi nhu cầu than của các nước ngày càng tăng với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường.

Muốn có nguồn than ổn định phải đầu tư mua mỏ ở nước ngoài để khai thác. Nhưng đây là dạng đầu tư mạo hiểm và nhiều rủi ro, hơn nữa cơ hội mua mỏ than ở các nước có tiềm năng về than như Indonesia, Úc,… không còn dễ do các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ,… đã triển khai đầu tư mua mỏ ở các nước đó từ hàng chục năm nay. Nếu không có chủ trương, chính sách quyết liệt và bảo lãnh của Chính phủ thì các doanh nghiệp không đủ tiềm lực và không dám đầu tư mua mỏ ở nước ngoài. Hơn nữa, để có thể nhập khẩu từ chục triệu đến hơn trăm triệu tấn than mỗi năm, ngoài đội tàu vận tải biển hùng hậu cần phải có hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ phục vụ nhập khẩu than như hệ thống cảng biển, cảng sông, bến bãi, kho chứa…Muốn vậy, cần phải có quy hoạch địa điểm các hộ sử dụng than nhập khẩu, thời điểm và chủng loại than nhập khẩu. Nhưng hiện nay, tất cả những vấn đề này đều còn là ẩn số.

Một số giải pháp về thị trường và đáp ứng nhu cầu than trong nước

Thứ nhất, tạo lập thị trường than cạnh tranh, công khai, minh bạch. Đẩy nhanh việc hoàn thiện và xây dựng đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường theo hướng tạo dựng một thị trường than hoàn chỉnh có kết cấu hạ tầng đồng bộ, thể chế quản lý, vận hành minh bạch, công khai và tính cạnh tranh theo đúng thông lệ thị trường. Đặc biệt, để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cần tăng cường năng lực và chất lượng quản lý nhà nước về thị trường cũng như về công tác quy hoạch, cấp phép, quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động khai thác, kinh doanh than, đảm bảo khai thác hợp lý, giảm tổn thất tài nguyên, an toàn, bảo vệ môi trường và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các trách nhiệm xã hội theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, đảm bảo sản lượng than khai thác trong nước gồm:

Đẩy mạnh công tác thăm dò nâng cấp tài nguyên với mức độ tin cậy cao để đảm bảo đủ trữ lượng than đưa vào khai thác. Trong đó, khẩn trương cấp phép thăm dò cho TKV (đơn vị chủ lực được giao nhiệm vụ chính thực hiện Quy hoạch 60) để triển khai thực hiện công tác thăm dò theo đúng tiến độ, đặc biệt là cấp phép thăm dò tiến tới lập dự án khai thác các khu mỏ mới vùng Bảo Đài, Đông Quảng lợi (thuộc Bắc Giang và Quảng Ninh) để đưa nhanh các mỏ này vào tham gia sản lượng giai đoạn sau 2022 ở mức 5,5 triệu tấn than nguyên khai/năm. Chỉ cấp phép khai thác than cho các đơn vị khác ngoài TKV có đủ năng lực thực sự theo quy định.

Phát huy tối đa lợi thế khai thác lộ thiên (công suất lớn, năng suất và hệ số thu hồi than cao, an toàn, đã có thiết bị và kinh nghiệm về công nghệ khai thác dưới sâu) trên cơ sở nâng cao hệ số bóc một cách tối đa (đảm bảo giá thành thấp hơn giá than nhập khẩu) bằng cách áp dụng các thiết bị công nghệ đồng bộ công suất lớn và hình thức vận tải liên tục.

Đối với khai thác than hầm lò thì cần tích cực nghiên cứu tìm kiếm công nghệ khai thác thích hợp. Cùng với đó, tăng cường áp dụng cơ giới hóa đến mức cao nhất trên cơ sở hợp tác với các đối tác nước ngoài có năng lực về công nghệ, chế tạo thiết bị và tài chính theo hướng từng bước nội địa hóa khâu chế tạo thiết bị phục vụ cơ giới hóa.

Đẩy nhanh việc nghiên cứu công nghệ khai thác than tại các khu vực cần phải bảo vệ nghiêm ngặt bề mặt hoặc nằm dưới các vùng quy hoạch của địa phương. Hiện nay, tại Quảng Ninh tổng tài nguyên, trữ lượng than tại các khu vực có khả năng chồng lấn giữa Quy hoạch của tỉnh và Quy hoạch 60 vào khoảng hơn 2 tỷ tấn.

Nâng cao tốc độ đào lò tối thiểu lên gấp 1,5 – 2 lần hiện nay để đảm bảo đưa các dự án hầm lò mới vào hoạt động theo đúng tiến độ.

Cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn lao động và có chính sách thích đáng thu hút công nhân hầm lò như: chính sách tiền lương, bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, điều kiện đi lại, sinh hoạt văn hóa thể thao, hỗ trợ nhà ở.

Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên cơ sở triệt để tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng.

Nhà nước cần có cơ chế chính sách hợp lý để tạo vốn đầu tư phát triển than và khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên than. Cụ thể, giảm mức vốn đối ứng của chủ đầu tư từ 30% xuống 15%, 20% và 25% tổng mức đầu tư tùy theo quy mô vốn của từng dự án; Kiên quyết thực hiện giá than trong nước, nhất là cho sản xuất điện theo cơ chế giá thị trường; Nhà nước xem xét điều chỉnh các chính sách thuế, phí đối với tài nguyên khoáng sản và than theo hướng khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên thay vì tăng cao như hiện nay; Do than antraxit có giá trị cao cho nên cần cho phép duy trì xuất khẩu ở mức hợp lý các loại than mà nhu cầu trong nước chưa sử dụng hết để có ngoại tệ nhập thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất than cũng như nhập khẩu than nồi hơi có giá rẻ hơn để sản xuất điện.; Nhà nước bảo lãnh hoặc có chính sách thích hợp hỗ trợ ngành than vay vốn từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, huy động vốn trên thị trường quốc tế phù hợp với tình hình thực tế của từng dự án, nhất là các dự án khai thác than ĐBSH; Tăng cường xã hội hóa đầu tư khai thác kinh doanh than theo hướng huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư theo hình thức BO đối với các công trình, hạng mục công trình phục vụ dây chuyền chính khai thác than như băng tải chở than, đất đá, ô tô chở đất đá, nhà máy tuyển than,... Việc thực hiện xã hội hóa đầu tư phải tuân thủ nguyên tắc “cái gì xã hội làm được và làm có hiệu quả hơn thì để xã hội làm”; các tập đoàn, DNNN chủ yếu chỉ nắm quyền chỉ huy, điều hành và nắm đầu ra thông qua nắm quyền chủ mỏ hoặc các khâu then chốt.

Hợp tác với các đối tác nước ngoài đẩy nhanh việc nghiên cứu tìm kiếm công nghệ khai thác hợp lý và khai thác thử nghiệm tại Bể than ĐBSH để làm cơ sở cho việc triển khai trên quy mô lớn công tác thăm dò và khai thác trong tương lai khi có đủ điều kiện.

Thứ ba, chế biến và sử dụng than tiết kiệm nhằm giảm nhu cầu và ô nhiễm.Theo đó, Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương xây dựng chính sách sử dụng than hợp lý, nhất là về chủng loại và chất lượng phù hợp cho các hộ sử dụng than: điện, xi măng, phân bón…và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các nhà máy nhiệt điện sử dụng than trong nước ở phía Bắc, các hộ sử dụng than nhập khẩu ở phía Nam.

Nghiên cứu chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo nhằm giảm áp lực vào nhiên liệu hóa thạch; tiến tới hạn chế các nhà máy điện dùng than để chuyển sang sử dụng dạng năng lượng khác nhằm giảm nhập khẩu than. Có chính sách giảm sử dụng than của các hộ khác để dành than cho điện như hạn chế sử dụng vật liệu nung, khuyến khích sử dụng vật liệu không nung trong các dự án xây dựng công trình; khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng khác phục vụ nhu cầu chất đốt sinh hoạt, sấy nông sản thực phẩm…Quy hoạch các làng nghề đang sử dụng than mà hiệu suất thấp và gây ô nhiễm môi trường, tiến tới hạn chế và không dùng than. Cùng với đó, ban hành chính sách sử dụng than hợp lý, đẩy mạnh nghiên cứu chế biến than nhằm tạo ra sản phẩm than sạch, nhất là than cho luyện kim để giảm nhập khẩu và sử dụng tiết kiệm, giảm thiểu ô nhiễm trong quá trình sử dụng than.

Thứ tư, đảm bảo nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài để khai thác than đưa về phục vụ trong nước. Đồng thời, có các giải pháp về cơ chế chính sách tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế nhà nước cũng như các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác đầu tư ra nước ngoài khai thác mỏ, nhất là chính sách bảo lãnh mua quyền khai thác mỏ.

Nhà nước hỗ trợ về đường lối, chính sách, quan hệ ngoại giao tạo sức mạnh tổng thể khi đàm phán với các đối tác trong việc đầu tư vào các mỏ tại nước sở tại và mua than để nhập khẩu về Việt Nam nhằm đảm bảo nguồn cung được ổn định và lâu dài.

Trên cơ sở Chiến lược nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than được duyệt, đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và năng lực vận chuyển phục vụ nhập khẩu than.

NangluongVietnam.vn

Kỳ 5: Thị trường phát điện cạnh tranh, những kết quả bước đầu

 SỰ KIỆN BẠN ĐỌC QUAN TÂM

Nước cờ tàn của Hoa Kỳ ở Ukraine
Ông Trần Xuân Giá và phiên tòa lịch sử
"Bầu" Kiên thực sự có bao nhiêu tiền?
Ukraine: Lối rẽ nội chiến, hay Nhà nước Liên bang?
Đâu là sự khác biệt giữa Crimea và Kosovo?
Campuchia trước chính sách nước đôi của Trung Quốc
Chủ tịch Kim Jong-Un qua lời kể của ngư

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động