Con đường tiến tới trung hòa carbon - Thách thức với ngành Năng lượng Việt Nam
09:50 | 04/01/2022
Ngành năng lượng cần làm gì để ‘kìm chân’ trái đất nóng lên ở ngưỡng 1,5 độ C? Nhằm đạt mục tiêu Thỏa thuận chung Paris 2015 và COP26, cộng đồng thế giới cũng như ngành năng lượng nói riêng đang có nhiều việc phải làm. Bốn vấn đề được chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam dưới đây cho thấy ngành năng lượng đang phải đối mặt với những trở ngại không hề nhỏ. |
COP26 có là bước ngoặt cho Biến đổi khí hậu? Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu, hay còn gọi là Hội nghị Các bên (COP) tham gia Công ước Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (nay là Hiệp định Paris 2015) lần thứ 26, đúng ra phải được tổ chức năm 2020. Nhưng đại dịch Covid-19 đã đẩy lùi Hội nghị sang năm nay, vẫn tại Thành phố Glasgow của xứ Scotland, nước Anh. Hội nghị dự tính kéo dài từ 31/10 đến ngày 12/11, với chương trình nghị sự đồ sộ. Nhưng câu hỏi đặt ra là: Liệu COP26 có là bước ngoặt cho Biến đổi khí hậu? Tổng hợp, phân tích của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam. |
Năng lượng rất nóng ở COP26 và thế kẹt của Việt Nam Mong ước tạo bước ngoặt của Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc (sau này trở thành Hiệp định Paris) về Biến đổi khí hậu COP26 tại Glasgow đã thành hiện thực một nửa vào đêm 13/11/2021. Một nửa còn lại được các đảo quốc và các nước đã phát triển coi là giấc mơ tan vỡ. Hiệp ước Glasgow về khí hậu là một văn kiện thỏa hiệp cân bằng giữa 197 nước tham gia. |
Đóng góp vào những nỗ lực của toàn cầu về ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tham dự Hội nghị quốc tế về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) tháng 11 năm 2021, đã có 142 quốc gia cam kết đưa phát thải khí CO2 về trung hòa vào năm 2050 (trong đó có 7 nước vào năm 2060). Việt Nam tuy là quốc gia đóng góp rất nhỏ vào phát thải khí nhà kính, nhưng đã thể hiện trách nhiệm rất cao với cộng đồng quốc tế. Tại COP26 Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cam kết: “… mặc dù là nước đang phát triển, mới chỉ bắt đầu tiến trình công nghiệp hóa trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam là một nước có lợi thế về năng lượng tái tạo, sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng ‘0’ vào năm 2050”.
Cho đến nay, trong các hoạt động kinh tế và hoạt động sống của con người, có nhiều ngành/lĩnh vực đã và đang tạo ra lượng lớn khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính, làm nhiệt độ trái đất nóng lên, cũng như các hiện tượng khí hậu cực đoan và nước biển dâng. Theo ước tính, năm 2020 trên phạm vi toàn cầu, mặc dù khí nhà kính (KNK) có giảm bớt 1,9 tỷ tấn do tác động của dịch Covid-19 làm suy giảm các hoạt động kinh tế, nhưng đã tăng trở lại vào năm 2021 với tổng cộng trên 35 tỷ tấn CO2. Mỹ và Trung Quốc là hai nước dẫn đầu về phát thải KNK. Từ các cam kết đã thông báo của các quốc gia trước COP26, dự kiến năm 2030 phát thải KNK sẽ ở mức khoảng 33,4 tỷ tấn và đến năm 2050 vẫn còn ở mức trên 20 tỷ tấn CO2 [1].
Việt Nam đứng ở đâu về phát thải KNK so với thế giới?
Theo Đóng góp quốc gia tự xác định (NDC) cập nhật năm 2020 [2] mà Việt Nam đã đệ trình: Phát thải KNK của Việt Nam ở mức 284 triệu tấn CO2 tương đương (tr.tCO2e) vào năm 2014. Trong trường hợp phát triển thông thường (BAU [3]) KNK sẽ tăng lên 514 tr.tCO2e vào năm 2020, và tới gần 928 tr.tCO2e vào năm 2030. Với cam kết trong Báo cáo NDC nói trên, Việt Nam sẽ giảm 9% phát thải KNK khi quốc gia tự thực hiện và có thể giảm tới 27% KNK vào năm 2030 so với BAU, với điều kiện có sự hỗ trợ quốc tế hiệu quả.
Theo các chuyên gia, mặc dù các hỗ trợ quốc tế về giảm phát thải KNK của Việt Nam chưa nhiều, nhưng ước tính năm 2020 Việt Nam phát thải khoảng 390 tr.tCO2e, tương đương đã giảm tới 24% KNK so với BAU. Như vậy, có thể thấy rằng đóng góp phát thải KNK của Việt Nam rất nhỏ, chỉ khoảng 1.1% so với tổng lượng khí CO2 phát ra trên toàn cầu hiện nay.
Thông thường có 4 ngành và lĩnh vực, qua các hoạt động của chúng, tạo ra phát thải KNK, đó là: Năng lượng (bao gồm cả giao thông vận tải), Nông nghiệp, các Quá trình công nghiệp và lĩnh vực Chất thải. Đồng thời có một lĩnh vực lại đang hấp thụ “ròng” khí CO2, đó là Sử dụng đất, Thay đổi sử dụng đất và Lâm nghiệp (LULUCF) [4]. Trong các lĩnh vực phát thải KNK ở Việt Nam, Năng lượng là ngành có tỷ trọng phát thải cao nhất, hiện nay chiếm tới 63,4% tổng phát thải. Đứng thứ hai là Nông nghiệp với tỷ trọng 22,7%, trong khi hàng năm lĩnh vực LULUCF hấp thụ khoảng -42,5 Tr.tCO2e (giảm được 10,9% lượng KNK). Theo các ước tính, tỷ trọng phát thải của ngành Năng lượng Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, có thể chiếm tới 75% tới trên 80% lượng KNK vào năm 2050 trong mọi kịch bản phát triển.
Vậy, được hiểu rằng ngành năng lượng có vai trò quan trọng nhất trong tăng hay giảm phát thải KNK quốc gia. Theo một nghiên cứu của BP [5]: Nhu cầu năng lượng sơ cấp (NLSC) của Việt Nam hiện ở mức thấp so với bình quân thế giới. Năm 2020 tiêu thụ NLSC bình quân chỉ đạt 42,0 GJ/người, bằng 70,5% bình quân của châu Á - Thái Bình Dương và bằng 58,8% bình quân của thế giới. Tính theo đầu người, mức phát thải từ ngành năng lượng hiện nay của Việt Nam là 2,886 tấn CO2/người, là mức thấp, chỉ khoảng 70% trung bình thế giới, nhưng nếu tính theo chỉ số phát thải theo GDP lại rất cao - 833 kgCO2/1000 US$, trong khi ở các nước phát triển chỉ số này là dưới 200 kgCO2/1000 US$.
Theo dự thảo Quy hoạch tổng thể năng lượng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 của Việt Nam (QHNL), tốc độ tăng nhu cầu NLSC giai đoạn 2021 - 2030 khá cao với mức bình quân 5,3%/năm, cả giai đoạn 2021 - 2050 là 4,2%/năm; Tiêu thụ điện bình quân (kWh/người) năm 2020 của thế giới là: 3.424; Châu Á - Thái Bình Dương: 3.040, còn Việt Nam là 2.384. Theo Dự thảo Quy hoạch điện 8 (QHĐ VIII), tốc độ tăng nhu cầu điện bình quân thời kỳ 2021 - 2030 rất cao - 8,5%/năm, cả thời kỳ 2021 - 2050 là 4,8%/năm [6].
Như thế nào là “trung hòa carbon” hay “net zero”?
Có thể nói đơn giản, trung hòa carbon, hay net zero là: Tổng lượng phát thải ra KNK CO2 và tổng lượng hấp thụ chúng phải là bằng 0. Như đã nói ở trên, các nguồn phát thải có tới 4 lĩnh vực, trong khi hiện nay chỉ có LULUCF là lĩnh vực hấp thụ CO2. Nếu muốn đạt net zero cần phải giảm lượng phát thải và tăng hấp thụ, trong khi yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vẫn đòi hỏi tăng thêm tiêu thụ năng lượng, tăng các quá trình công nghiệp để khai thác than - dầu - khí, sản xuất thép, xi măng, phân bón, tiếp tục duy trì sản xuất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực... sẽ tiếp tục làm tăng phát thải. Còn rừng là nguồn hấp thụ KNK lại khó có thể tăng diện tích liên tục, do sau hàng thập kỷ phấn đấu, hiện nay ta mới có trên 14,6 triệu ha rừng với độ che phủ lên tới 42% diện tích đất tự nhiên. Theo các nhà hoạch định ngành lâm nghiệp, với nhiều hạn chế, trong tương lai rất khó đưa độ che phủ rừng lên tới 43%. Ước tính với nhiều biện pháp cải thiện chất lượng rừng tự nhiên và rừng trồng, trong dài hạn LULUCF có thể hấp thụ tới trên -140 Tr.tCO2e, tuy đáng kể, nhưng khó mà “bù” được phát thải từ 4 lĩnh vực kia.
Lâu nay chúng ta hay nhắc đến một công nghệ hấp thụ CO2 gọi là Carbon Capture System (CCS) có thể bắt giữ và lưu trữ CO2, tuy nhiên một vài nước mới đang ở mức thử nghiệm công nghệ đó, giá thành còn cao, chưa thể có mặt trên thị trường nay mai, sẽ cần phải chờ đợi tới cả chục năm.
Thách thức của ngành năng lượng Việt Nam với con đường “net zero”:
Tập trung vào ngành năng lượng, nguồn phát thải CO2 lớn nhất, tính toán cho thấy trong trường hợp thông thường, ngành này sẽ phát thải tới trên 1,2 tỷ tấn CO2e vào năm 2050. Dù sao gần đây Đảng và Chính phủ đã có hàng loạt chính sách và chiến lược cho chuyển dịch năng lượng sang tăng mạnh tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT), giảm dần các nguồn nhiên liệu hóa thạch, thúc đẩy tiết kiệm và hiệu quả năng lượng. Trong kịch bản phát triển của dự thảo QHNL nêu trên, nhu cầu NLSC của Việt Nam sẽ lên tới 354 triệu tấn dầu tương đương (MTOE) vào năm 2050, và với kịch bản nỗ lực cao về phát triển NLTT, áp dụng các công nghệ tiên tiến thế giới, dự báo ngành năng lượng vẫn phát thải khoảng 510 tr.tCO2e vào năm 2050. Đó là các ước tính trước cam kết của Việt Nam trước COP26, cho thấy sớm nhất Việt Nam chỉ có thể đạt Net zero vào năm 2070. Tính riêng cho ngành điện lực, theo phiên bản mới nhất của QHĐ 8 do Bộ Công Thương dự kiến, tới năm 2045 mặc dù tỷ lệ công suất các nguồn NLTT bao gồm thủy điện trong tổng cơ cấu đã lên tới gần 55% (191,3 GW), sản lượng điện chiếm tới gần 39%, sau năm 2030 không xây dựng thêm điện than, nhưng trên 39 GW nhiệt điện than và 64 GW công suất điện sử dụng LNG (chưa kể khoảng 23 GW các nguồn linh hoạt, chạy ít giờ và cũng sử dụng LNG) vẫn có mặt trên hệ thống nguồn khi đó. Ước tính lượng phát thải KNK từ nguồn điện năm 2045 vẫn tới trên 390 Tr.tCO2e.
Có thể thấy nếu muốn đạt net zero vào 2050, các thách thức với ngành năng lượng còn rất nhiều, trong đó:
Một là: Nhu cầu năng lượng cần tiếp tục tăng để phục vụ phát triển kinh tế và nâng cao đời sống người dân, nhất là phải đảm bảo an ninh cung cấp năng lượng.
Hai là: Quy mô nền kinh tế còn khiêm tốn, bình quân GDP đầu người mới đạt mức trên 3.000 US$/năm, trong khi các nguồn NLTT có giá thành còn cao, áp dụng công nghệ tiên tiến - hiện đại cần rất nhiều tiền đầu tư.
Ba là: Cơ cấu kinh tế chưa có sự thay đổi ngành nghề theo hướng tăng các ngành “sản xuất xanh”, vẫn còn nhiều lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng, kém hiệu quả.
Ngành năng lượng Việt Nam cần làm gì để đóng góp vào trung hòa carbon năm 2050?
Dư luận thế giới cũng như trong nước đã ghi nhận và đánh giá cao các nỗ lực của Chính phủ và các bộ, ngành trong các chính sách, chiến lược và sự quyết tâm phấn đấu giảm nhẹ phát thải các chất ô nhiễm, đặc biệt là giảm phát thải KNK. Bên cạnh các thách thức, chúng ta có những điều kiện thuận lợi và cơ hội lớn nếu tập trung nỗ lực và tận dụng tối đa các hỗ trợ quốc tế. Hơn nữa, Việt Nam có tiềm năng các nguồn NLTT như năng lượng gió và mặt trời dồi dào vào bậc nhất các quốc gia Đông Nam Á.
Một vài ý kiến của tác giả cho rằng ngành năng lượng cần phải phấn đấu thực hiện trong dài hạn, đóng góp giảm nhẹ KNK quốc gia và tiến tới net zero như sau:
Thứ nhất: Về vĩ mô, chiến lược và quy hoạch chung quốc gia cần hướng tới nền kinh tế phát thải thấp carbon, trong đó tăng cường các ngành nghề công nghệ cao, sử dụng ít năng lượng và hiệu quả, giảm quy mô các sản phẩm dùng nhiều năng lượng nhưng tạo ra giá trị GDP thấp như thép, xi măng để cho mục đích xuất khẩu; khuyến khích và tiến tới quy định bắt buộc về sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng trong mọi lĩnh vực.
Thứ hai: Cho tới khoảng năm 2030 - 2035 các nguồn năng lượng truyền thống vẫn tiếp tục tăng, kết hợp với phát triển NLTT nhằm đảm bảo an ninh cung cấp năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng sau năm 2035 cần thiết giảm dần các nguồn năng lượng hóa thạch, tìm nguồn thay thế bằng các loại NLTT và năng lượng “xanh” thông qua các công cụ kinh tế như thuế carbon, thị trường carbon... Tăng cường tối đa các nguồn NLTT, nhất là khai thác tiềm năng điện gió ngoài khơi.
Thứ ba: Khuyến khích và đầu tư mạnh giao thông công cộng, các phương tiện giao thông điện, tàu điện cao tốc Bắc - Nam nhằm sử dụng năng lượng dư thừa, được lưu trữ từ các nguồn điện gió, điện mặt trời ở thời điểm phụ tải thấp; thay thế nhiên liệu bằng xăng sinh học từ E5 chuyển dần sang E10; ban hành định mức tiết kiệm tiêu thụ nhiên liệu trên mỗi km cho các phương tiện giao thông…
Thứ tư: Cần nắm bắt tối đa các cơ hội về chuyển giao công nghệ và hỗ trợ tài chính quốc tế để có thể áp dụng dần chuỗi công nghệ không phát thải KNK như hệ thống lưu trữ điện năng, sử dụng hydro xanh (được tạo ra từ nguồn NLTT) cho các phương tiện giao thông và làm nhiên liệu cho các quá trình công nghiệp; khi giá cả công nghệ CCS giảm tới mức hợp lý, cần áp dụng để chôn lấp carbon, tạo lĩnh vực mới hấp thụ khí CO2 cho trung hòa carbon.
Thứ năm: Điện hạt nhân là một nguồn phát thải KNK không đáng kể, có số giờ sử dụng thiết bị rất cao, tuổi thọ có thể lên tới 80 năm, nhiên liệu khi dự trữ có thể dùng cho hàng chục năm - đảm bảo an ninh nhiên liệu dài hạn, đồng thời có công nghệ ngày càng an toàn hơn. Tuy Quốc hội đã dừng chủ chương xây dựng điện hạt nhân (năm 2016) do lý do về kinh tế, nhưng để thay thế nguồn điện than và khí, điện hạt nhân rất cần được xem xét tái khởi động xây dựng vào những năm 2040. Đây rất có thể là điểm ‘chốt’ giúp cho Việt Nam tiến tới trung hòa carbon vào 2050./.
Tháng 12/2021.
NGUYỄN ANH TUẤN (A) - HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo:
[1] World Energy Outlook 2021, IEA.
[2] Báo cáo Cam kết quốc gia tự xác định (Nationally Determined Contributions - NDC) định kỳ 5 năm của các quốc gia tham gia Hiệp định Paris 2015 về biến đổi khí hậu.
[3] Trường hợp thông thường - Business As Usual.
[4] Lan Use, Land Use Change & Forestr, theo định nghĩa của Ủy ban Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu-IFCC.
[5] Theo: BP statical Review of World Energy 2021.
[6] Theo Dự thảo Quy hoạch điện 8, Kịch bản cơ sở, Tháng 10/2021.