Ngành điện thế giới và Việt Nam năm đầu Covid-19 [Kỳ 1]: Sản lượng điện sản xuất
07:42 | 08/10/2021
Một số dấu hiệu của ngành than toàn cầu [Kỳ cuối]: Việt Nam cần lưu ý những gì? Hiện nay, với xu thế phát triển nền kinh tế tuần hoàn - nền kinh tế phi chất thải, ngay các loại chất thải từ sản xuất và sinh hoạt từng bị coi là thứ độc hại, vô dụng, bỏ đi đã được thế giới xác định là nguồn tài nguyên thứ cấp quan trọng, cần phải tái chế, sử dụng triệt để nhằm phục vụ sản xuất và đời sống. Với tư duy đó, không có cớ gì lại coi nguồn tài nguyên than là đồ “bẩn thỉu” phải bỏ đi. Ngược lại, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam cho rằng: Phải tiếp tục tìm cách tốt nhất để khai thác, chế biến, sử dụng chúng phục vụ cuộc sống con người. |
Một số dấu hiệu của ngành than toàn cầu [Kỳ 2]: Dấu hiệu nào cần quan tâm? Từ tổng quan trữ lượng, sản lượng khai thác, xuất - nhập khẩu, tiêu thụ than năm 2020 của toàn thế giới, khu vực, nhóm nước và các nước đại diện (trong kỳ trước), dưới đây, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam sẽ phân tích, nhận xét làm rõ từng nội dung, cũng như lưu ý những dấu hiệu cần quan tâm của ngành than trên toàn cầu. |
Một số dấu hiệu của ngành than toàn cầu [Kỳ 1]: Tổng quan từ trữ lượng đến tiêu thụ Năm 2020 ngành than toàn cầu đã để lại một số dấu hiệu quan trọng cần quan tâm. Với tinh thần đó, trong bảng dưới đây trình bày tổng quan trữ lượng, sản lượng khai thác, xuất - nhập khẩu, tiêu thụ than năm 2020 của toàn thế giới, khu vực, nhóm nước và các nước đại diện. |
Năm 2020 - năm đầu tiên có ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến sản xuất và đời sống của nhân loại trên toàn thế giới, trong đó có ngành điện. Sau đây, trong hình 1 và hình 2 nêu điện sản xuất và bình quân đầu người, hình 3 nêu sản xuất điện than theo đầu người của các nước đại diện trong bối cảnh nói trên.
Hình 1. |
Hình 2. |
Hình 3. |
[1]. Sản lượng điện và điện than bình quân đầu người năm 2020 do tác giả tính toán theo dân số của các nước trong https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_sách_quốc_gia_theo_dân_số.
Ghi chú: Nước đại diện là nước có sản lượng điện ≥0,1% sản lượng điện thế giới. (◆) Số quá nhỏ. Sản lượng điện bình quân đầu người số trong (…) là của nhiệt điện than. Thứ tự trên thế giới: Tử số là của điện tổng số, mẫu số là của điện than.
Nhận xét về tổng sản lượng điện sản xuất năm 2020:
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới bị suy giảm khoảng trên dưới 4% do Covid-19, ngành sản xuất điện toàn cầu cũng không tránh khỏi sự ảnh hưởng. Tổng sản lượng điện toàn cầu đạt 26.823,2 tỷ kWh, giảm 0,9% so với năm 2019, mức giảm tương đối sâu so với mức tăng bình quân trong giai đoạn 2009 - 2019 là 2,9%/năm và cao hơn nhiều so với mức giảm 0,5% năm 2009 do tác động của suy thoái kinh tế.
Trong số các khu vực, chỉ 2 khu vực có sản lượng điện tăng gồm: Trung Đông 0,6% và châu Á - TBD 1,1%, tuy nhiên cả 2 khu vực đều có mức tăng thấp hơn nhiều so với mức tăng bình quân giai đoạn 2009 - 2019, tương ứng là 4,5% và 5,4%. Còn lại các khu vực khác có sản lượng điện giảm: Bắc Mỹ -2,8%; Nam và Trung Mỹ -4,5%; châu Âu -3,3%; CIS -2,5% và châu Phi 2,5%. Trong đó, chỉ có châu Âu là tiếp tục giảm mạnh, cao hơn nhiều so với mức giảm bình quân -0,2%/năm trong giai đoạn 2009 - 2019, còn lại các khu vực khác bắt đầu giảm sau thời kỳ gia tăng.
Nhóm các nước OECD giảm 2,8% và EU giảm 4,5%, trong khi nhóm các nước ngoài OECD tăng nhẹ 0,4%.
Xét theo từng nước thì trong một khu vực, nhóm nước chỉ có một số nước tăng, còn đa phần là giảm, thậm chí giảm mạnh. Cụ thể là:
Tại Bắc Mỹ: cả 3 nước Canada, Mexico và Mỹ đều giảm.
Tại Nam và Trung Mỹ, chỉ có một số nước tăng, còn đa phần các nước giảm, trong đó một số nước giảm mạnh như Venezuela (-35,1%), Peru (-7,7%), Colombia (-6,5%).
Tại châu Âu: Đa phần các nước giảm, trong đó giảm sâu nhất là CH Séc (-6,6%), Pháp (-7,0%), Đức (-6,4%), Hy Lạp (-6,6%), Rumani (-5,7%).
Ngược lại một số nước tăng, thậm chí tăng cao như Na Uy (14,2%).
Tại CIS: Một số nước tăng, song các nước giảm là chính, nhất là Nga (-3,2%), Azerbaijan (-12,7%) và Belarus (-4,6%), kéo theo cả khối giảm.
Tại Trung Đông: Nhiều nước tăng và cũng nhiều nước giảm, song số nước tăng có phần nhỉnh hơn nên cả khối tăng nhẹ (0,6%).
Tại châu Phi: Hầu hết các nước giảm, trong đó, đặc biệt Nam Phi giảm mạnh tới -5,5%.
Tại châu Á - TBD: Hầu hết các nước giảm, chỉ có một số nước tăng, đặc biệt là Trung Quốc tăng 3,4%, Việt Nam 2,8% và Đài Loan 1,8%, kéo theo cả khối tăng 1,1%.
Như vậy, năm 2020 sự tăng giảm sản lượng điện trong từng khu vực, nhóm nước đã thiên về xu thế chung là giảm, dẫn đến toàn cầu giảm. Nguyên nhân chính là thủ phạm Covid-19.
10 nước có quy mô sản lượng điện lớn nhất gồm (% trên tổng sản lượng điện thế giới): Trung Quốc 29,0%, Mỹ 16,0%, Ấn Độ 5,8%, Nga 4,0%, Nhật Bản 3,7%, Canada 2,4%, Brazil 2,3%, Đức 2,1%, Hàn Quốc 2,1%, Pháp 2,0%. Tổng 10 nước chiếm 69,4%.
Về sản lượng điện bình quân đầu người năm 2020 (kWh/người): Của toàn thế giới là 3.424, giảm so với năm 2019 khoảng 2,0%. Trong đó, Bắc Mỹ: 10.500 (cao gấp gần 3,1 lần bình quân của thế giới); Nam và Trung Mỹ: 2.444; châu Âu: 5.701; CIS: 5.661; Trung Đông: 4.847; châu Phi: 631; châu Á-TBD: 3.040; OECD: 7.673; ngoài OECD: 2.479; EU: 6.223.
Trong số các nước đại diện, 10 nước có sản lượng điện bình quân đầu người cao nhất gồm (kWh/người): Na Uy 28.379, Cô-oet 17.420, Qatar 17.378, Canada 16.988, Thụy Điển 16.705, UAE 13.929, Mỹ 12.913, Phần Lan 12.410, Đài Loan 11.739, Hàn Quốc 11.193.
Ngược lại, còn rất nhiều nước sản lượng điện bình quân đầu ngưới rất thấp (<1.000 kWh/người) như: Bangladesh 538, Pakistan 618, Sri Lanka 788, Philippines 923, v.v... và nhiều nước ở châu Phi thấp dưới 500 kWh/người, chính vì vậy, bình quân đầu người của châu Phi chỉ đạt 631 kWh/người.
Bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt 2.384 kWh/người, chỉ bằng 78,4% của châu Á - TBD, 69,6% của thế giới, 48,7% của Malaysia và 44,2% của Trung Quốc, thấp hơn Thái Lan và rất thấp so với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, v.v…
Nhiệt điện than bình quân đầu người (kWh/người) toàn thế giới: 1.203 (bằng 35,1% điện bình quân tổng số), trong đó Bắc Mỹ 1.799, Nam và Trung Mỹ 146, châu Âu 846, CIS 929, Trung Đông 75, châu Phi 177, châu Á - TBD 1.738. Nói chung có sự khác nhau đáng kể giữa các khu vực, song cao nhất là ở Bắc Mỹ và châu Á - TBD.
Các nước có nhiệt điện than bình quân đầu người cao nhất gồm (kWh/người): Úc 5.573, Đài Loan 5.286, Hàn Quốc 4.066, Kazakstan 3.865, Trung Quốc 3.412, Nam Phi 3.392, Ba Lan 2.935, Malaysia 2.751, Mỹ 2.643, Nhật Bản 2.367. Qua đó cho thấy, trừ Ba Lan và Mỹ, còn lại là các nước châu Á - TBD.
Nhiệt điện than bình quân đầu người của Việt Nam là 1.206 kWh/người, bằng mức của thế giới, 67% của Bắc Mỹ và châu Á - TBD, 43,8% của Malaysia, 51,0% của Nhật Bản và rất thấp so với Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, v.v…
Tóm lại, sản lượng điện bình quân đầu người (kể cả tổng số và riêng nhiệt điện than) của Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Vấn đề là, tuy mức phát thải CO2 trên đầu người của Việt Nam còn thấp song cường độ phát thải CO2 trên GDP rất cao. Đó là điều cần quan tâm trong phát triển điện năng và năng lượng thời gian tới.
Thông qua chỉ tiêu sản lượng điện bình quân đầu người cho thấy phần nào nguyên nhân tăng, giảm sản lượng điện của các khu vực, nhóm nước và của từng nước như đã nêu trên.
Kỳ tới: Nhận xét về cơ cấu sản lượng điện của Việt Nam và thế giới
PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo:
1. BP Statistical Review of World Energy 2021.
2. Điện hạt nhân trên thế giới và đề xuất tại Việt Nam. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam,18/02/2021.