Các chuyên gia gợi ý với Thủ tướng một số giải pháp ban đầu cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2
06:56 | 15/03/2025
![]() Bài phân tích dưới đây của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam cung cấp cái nhìn đa chiều về tình hình hiện tại, làm nổi bật mối liên hệ phức tạp giữa hỗ trợ quốc tế, chính sách nội địa và phát triển năng lượng bền vững. Khi Việt Nam đối mặt với những vấn đề này, việc định hướng lại chiến lược năng lượng sẽ đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo tương lai năng lượng sạch và an toàn cho quốc gia. |
A. Tóm tắt tình hình trong nước và quốc tế:
I. Bối cảnh:
Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 và 2 chữ số từ giai đoạn 2026-2030, do đó nhu cầu tăng trưởng điện mỗi năm dự tính khoảng 12-14%, hoặc cao hơn. Chính vì vậy, việc phát triển điện hạt nhân trở nên quan trọng và cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện chuyển dịch năng lượng, giảm các nguồn nhiên liệu hóa thạch gây phát thải khí nhà kính, đa dạng nguồn cung, bảo đảm an ninh năng lượng và đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát thải ròng bằng 0 (Net zero) vào năm 2050 theo cam kết với quốc tế tại COP26.
Là dự án điện hạt nhân đầu tiên, nên chúng ta chưa có kinh nghiệm trong việc đầu tư xây dựng. Nhưng chúng ta có những thuận lợi về sự thống nhất chủ trương và chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ; địa điểm được chọn đã đạt các tiêu chí cần thiết; có đội ngũ chuyên gia, cũng như kỹ thuật viên được đào tạo giai đoạn từ năm 2010 đến 2016. Đặc biệt, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam - PVN) là 2 tập đoàn có kinh nghiệm thực hiện tốt các dự án nguồn điện.
II. Công nghệ điện hạt nhân:
Trên thế giới (theo số liệu tháng 2/2025): Có 417 tổ máy điện hạt nhân đang vận hành, với tổng công suất 377.046 MWe. Các loại công nghệ đang được sử dụng chủ yếu trong các nhà máy điện hạt nhân trên thế giới là lò nước áp lực (PWR) chiếm 73,86% về số lượng và 78,48% về công suất lắp đặt.
Từ những năm 2018 trở lại đây, các tổ máy điện hạt nhân tiên tiến thuộc công nghệ thế hệ 3+ (VVER-1200/AES-2006 của Nga; AP1000 của Mỹ; APR-1400 của Hàn Quốc, EPR-1750 của Pháp, ACR700 của Ấn Độ…) được đưa vào vận hành tại Nga, Trung Quốc, Belarus, Mỹ, UAE, Phần Lan, Pháp và Ấn Độ. Đồng thời, thế hệ lò 3+ cũng được tiếp tục khởi công xây dựng ở Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Nga, Bangladesh.
Công nghệ lò VVER-1200/AES-2006 thế hệ 3+ được trang bị hệ thống bẫy vùng hoạt (Core-catcher) lắp đặt phía dưới thùng lò phản ứng (bên ngoài), có khả năng lưu giữ và làm mát nhiên vật liệu nóng chảy, trong khi công nghệ AP1000 trang bị hệ thống làm mát đáy thùng lò phản ứng giúp giam giữ và làm mát nhiên vật liệu nóng chảy một cách hiệu quả ngay bên trong lò phản ứng.
Số liệu thống kê tại cho thấy: Trong giai đoạn từ năm 2020-2024 có 28 tổ máy điện hạt nhân/30.207 MWe được hoàn thành xây dựng và đi vào vận hành phát điện thương mại. Đồng thời có 33 tổ máy điện hạt nhân/35.235 MWe được khởi công xây dựng.
III. Tiến độ đầu tư xây dựng:
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 189/2025/QH15 quy định một số cơ chế, chính sách đặc biệt để đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (gồm Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2) và các dự án thành phần và một số cơ chế, chính sách đặc biệt áp dụng cho các bộ, ngành, chủ đầu tư và tỉnh Ninh Thuận để thực hiện dự án. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách nêu trên mới chỉ thỏa mãn, đáp ứng được tiến độ cho quá trình chuẩn bị đầu tư, đầu tư xây dựng đến giai đoạn ký Hợp đồng đối với gói thầu “chìa khóa trao tay” xây dựng nhà máy chính (khoảng thời gian này phía Việt Nam có thể chủ động để rút ngắn được). Nhưng khoảng thời gian từ khi ký Hợp đồng xây dựng nhà máy chính đến khi phát điện thương mại hoàn toàn phụ thuộc vào việc đàm phán với nhà thầu quốc tế, tuân thủ theo các quy định bắt buộc của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) trong việc đảm bảo cơ sở hạ tầng và chuyển bước thi công, cũng như quy định pháp quy hạt nhân hiện hành của nước xuất khẩu công nghệ.
Theo kinh nghiệm quốc tế, thời gian xây dựng nhà máy điện hạt nhân tính từ thời điểm “mẻ bê tông đầu tiên” là khoảng 6 năm. Đối với các nước đã làm chủ công nghệ điện hạt nhân, thời gian xây dựng công trình từ 6-7 năm là khá thông thường, trong khi một số nước bị kéo dài thời gian do thủ tục và quản lý xây dựng chưa tốt đã gây đội vốn rất lớn, thậm chí phải hủy dự án.
Như thống kê nêu trên: Giai đoạn này, nếu chuẩn bị tốt, thì đối với quốc gia lần đầu xây dựng nhà máy điện hạt nhân vẫn có thể kéo dài từ 6 năm đến 8 năm. Do vậy, thời gian để hoàn thành dự án đầu tư xây dựng các nhà máy điện hạt nhân sẽ phụ thuộc vào 2 mốc: Thời gian chuẩn bị đến khi hoàn thành ký Hợp đồng đối với gói thầu “chìa khóa trao tay” xây dựng nhà máy chính, kể cả thiết kế kỹ thuật và cấp phép xây dựng (khoảng 3 năm), cộng với khoảng 6 năm đến 8 năm thi công xây lắp theo thông lệ và kinh nghiệm quốc tế.
Thực tiễn đã cho thấy: Đến nay, chỉ có Trung Quốc - đất nước đã làm chủ phần lớn công nghệ điện hạt nhân mà họ tự thiết kế, có tiềm lực khoa học công nghệ cao… mới có thể thực hiện dự án trong vòng 5 đến 6 năm (tính từ khi khởi công xây dựng dự án).
IV. Nguồn nhân lực:
Sau khi dừng thực hiện chủ trương đầu tư điện hạt nhân Ninh Thuận vào tháng 11/2016, chính sách phát triển điện hạt nhân không rõ ràng đã khiến một lượng lớn cán bộ, nhà nghiên cứu của Cơ quan pháp quy và chủ đầu tư khi đó đã rời bỏ công việc. Các đề tài nghiên cứu về an toàn và công nghệ điện hạt nhân cũng không được ủng hộ khiến năng lực của các nhà nghiên cứu cũng không được duy trì và phát triển. Hiện tại, Việt Nam có rất ít chuyên gia về công nghệ điện hạt nhân và an toàn hạt nhân.
Để dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2 vào vận hành đảm bảo hiệu quả, tiến độ trong thời gian sớm nhất có thể, chúng ta cần lưu ý một số nội dung như nêu trong phần “đề xuất và kiến nghị” dưới đây:
B. Đề xuất và kiến nghị:
I. Về Ban Chỉ đạo:
Theo thông báo kết luận số 35/TB-VPCP ngày 7/2/2025 tại Phiên họp thứ hai của Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho các bộ, ngành và cơ quan liên quan 11 cụm công việc. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương - cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo khẩn trương rà soát, kiện toàn ngay Ban Chỉ đạo theo hướng: “Bổ sung thành viên Ban Chỉ đạo và thành lập Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo”. Do đó, trong quá trình kiện toàn trước khi trình Chính phủ xem xét, chúng ta cần lưu ý một số nội dung như sau:
1. Về thành phần Ban Chỉ đạo: Trong Quyết định, nên chỉ để chức danh lãnh đạo các bộ, ngành liên quan, không nên ghi đích danh tên từng thành viên. Cụ thể tên từng thành viên Ban Chỉ đạo sẽ do thủ trưởng các bộ, ngành cử lãnh đạo phụ trách mảng năng lượng trực tiếp tham gia. Như vậy sẽ đảm bảo sự hoạt động thông suốt, không bị gián đoạn trong hoạt động, tránh thường xuyên trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thay đổi thành viên Ban Chỉ đạo do điều động, luân chuyển thay đổi vị trí công tác…
2. Xem xét, giới thiệu bổ sung một Phó Trưởng ban “Chuyên trách” thực hiện chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân (bổ sung quyền hạn trong việc quyết định các vấn đề phát sinh khi thực hiện đầu tư xây dựng dự án) cho đến khi nhà máy đi vào vận hành. (Phó Trưởng ban “Chuyên trách” được ví như “Nhạc trưởng”, đã có trước đây - khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ủy quyền cho Phái viên Thái Phụng Nê làm Phó Trưởng Ban chỉ đạo trong chỉ đạo xây dựng các nhà máy thủy điện Sơn La và Lai Châu).
3. Về việc thành lập Tổ giúp việc (Văn phòng) Ban Chỉ đạo bao gồm một số cán bộ chuyên trách và kiêm nhiệm, lãnh đạo Tổ giúp việc có thể ký hợp đồng với các chuyên gia về lĩnh vực điện hạt nhân để thực hiện nhiệm vụ được giao trong từng thời kỳ. Mặt khác, nghiên cứu đề nghị Trưởng Ban Chỉ đạo quyết định chế độ hỗ trợ tiền lương tăng thêm đối với các cán bộ trong Tổ giúp việc. (Đã có trước khi dừng thực hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận vào năm 2016).
II. Về công nghệ và đối tác:
1. Công nghệ điện hạt nhân tiên tiến thế hệ 3+, công suất (đã được kiểm chứng là an toàn, hiệu quả):
Cho đến nay, thế hệ 3+ đã đáp ứng yêu cầu cao nhất về an toàn hậu Fukushima, kết hợp một cách hợp lý các hệ thống an toàn theo nguyên lý chủ động và thụ động đảm bảo an toàn cao trong quá trình vận hành nhà máy, giảm thiểu tối đa hậu quả trường hợp xảy ra sự cố trong và ngoài thiết kế (như máy bay rơi trúng, mất điện toàn bộ nhà máy...). Trong trường hợp xảy ra sự cố cực đoan làm nóng chảy nhiên vật liệu vùng hoạt lò phản ứng, chất phóng xạ thoát ra được giữ trong không gian nhà lò một cách an toàn, không phát tán ra môi trường.
Ở Việt Nam, trước thời điểm dừng đầu tư dự án (tháng 11/2016), EVN cũng đã hoàn thành và trình Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân về Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 để tiến hành thẩm định. Tuy nhiên, chưa được thực hiện. Công nghệ được lựa chọn là AES2006 (thiết kế VVER1200/V491), thế hệ 3+. Còn Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đã được tư vấn quốc tế bổ sung, hoàn thiện và nộp cho EVN để chuẩn bị thẩm tra. Trong Báo cáo nghiên cứu khả thi của Ninh Thuận 2, có 4 công nghệ được đề xuất, nhưng chưa có phương án công nghệ được lựa chọn.
Qua các thông tin trên có thể thấy rằng: Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Báo cáo nghiên cứu khả thi của các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận được khảo sát, lập và trình duyệt giai đoạn năm 2016 vẫn cơ bản hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển điện hạt nhân của thế giới, phù hợp với tiêu chí đặt ra của Quốc hội là: “Hiện đại, an toàn và đã kiểm chứng”.
2. Về đối tác:
Về đối tác thực hiện các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, chúng ta vẫn nên ưu tiên chọn và tiếp tục làm việc với 2 đối tác Nga, Nhật Bản là thuận lợi nhất về mặt thủ tục, giảm bớt công tác chuẩn bị lại hồ sơ để tiết kiệm thời gian, cũng như kinh phí xây dựng dự án.
3. Về công nghệ lò phản ứng hạt nhân modun nhỏ (SMR):
Hiện nay, có ý kiến cho rằng: Việt Nam nên phát triển các lò phản ứng hạt nhân modun nhỏ (SMR) với lập luận là có tiêu chuẩn an toàn hơn, kinh tế hơn, ít chất thải hạt nhân hơn. Công nghệ lò điện hạt nhân quy mô nhỏ có thể sử dụng nhiên liệu loại mới, hoặc cùng loại nhiên liệu như các lò tiên tiến (tuỳ vào từng thiết kế) và có những cải tiến về độ an toàn, đặc biệt các tính năng an toàn thụ động gần như trở thành yếu tố bắt buộc với các lò quy mô nhỏ. Tuy nhiên, do lò hạt nhân modun nhỏ hiện vẫn đang hoàn thiện về thiết kế, chưa được kiểm chứng thực tế về tính an toàn, nên có thể còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, khác xa với lò công suất lớn đang được triển khai rộng rãi trên thế giới trong hàng chục năm qua.
Mặc dù lò SMR được đánh giá có thể có ưu điểm, nhưng việc triển khai công nghệ này chỉ phù hợp với các nước đã có trình độ khoa học công nghệ hạt nhân đáp ứng yêu cầu thực tế, có kinh nghiệm vận hành các lò hạt nhân công suất lớn. Đối với Việt Nam, trong bối cảnh hiện nay chưa phù hợp và không khả thi theo tiêu chí Quốc hội đề ra là “phải được kiểm chứng”. Vì vậy, khi công nghệ SMR đã được kiểm chứng, chúng ta sẽ xem xét phát triển trong giai đoạn sau.
III. Về lập kế hoạch hợp lý về tiến độ:
Thời gian chuẩn bị đến khi hoàn thành ký Hợp đồng đối với gói thầu “chìa khóa trao tay” xây dựng nhà máy chính, kể cả thiết kế kỹ thuật và cấp phép xây dựng (khoảng 3 năm). Thời gian thi công xây lắp khoảng 6 năm đến 8 năm. Do đó, cần phải có kế hoạch tiến độ hợp lý theo kinh nghiệm quốc tế và năng lực của chúng ta. Cơ quan quản lý chuyên môn và chủ đầu tư cần có báo cáo cụ thể về các mốc thời gian chính và xây dựng kế hoạch tổng thể để Thủ tướng Chính phủ có các chỉ đạo phù hợp, đảm bảo hiệu quả dự án.
IV. Về vốn đầu tư:
Tham khảo mức vốn đầu tư của điện hạt nhân với công nghệ thế hệ 3 và 3+ được tổng hợp từ nhiều quốc gia, trong đó trung bình ở Mỹ, châu Âu là khoảng 6 triệu USD/MW, con số này ở Trung Quốc, Ấn Độ là 2,7 triệu USD và với Nga, Hàn Quốc là khoảng 3,0-3,5 triệu USD khi đầu tư trong nước.
Theo Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (năm 2015), trung bình suất đầu tư danh nghĩa cho loại lò AES2006/V491 (Nga) cho Ninh Thuận 1 và AP 1000 Westinghouse (Mỹ) cho Ninh Thuận 2 là 5,06 triệu USD/MW. Đến nay tổng mức đầu tư cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ phụ thuộc nhiều yếu tố như quy mô công suất, yêu cầu công nghệ và đòi hỏi về các yếu tố an toàn.
Với quy mô công suất 2x1000 MW cho mỗi dự án, theo “Cẩm nang công nghệ sản xuất điện Việt Nam 2023”, giai đoạn đến năm 2030, tổng mức đầu tư cho 1 dự án điện hạt nhân có quy mô 2.000 MW (chưa bao gồm chi phí quản lý, tư vấn, chuẩn bị mặt bằng, thuế, lãi vay trong quá trình thi công) ước khoảng 9,6 tỷ USD tương đương 240 nghìn tỷ VNĐ.
Nguồn vốn và huy động vốn với quy mô nêu trên là rất lớn. Cần thiết huy động nhiều nguồn lực như: Chính phủ huy động khoản vay ưu đãi từ nước xuất khẩu công nghệ - thiết bị; các tổ chức tín dụng hỗ trợ chuyển dịch năng lượng; phát hành trái phiếu; huy động tín dụng các ngân hàng trong nước; tín dụng hãng cấp thiết bị… Đặc biệt, sự tham gia của các công ty trong nước vào quá trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân, sản xuất thiết bị phụ trợ (nếu có đủ năng lực) sẽ góp phần đáng kể vào giảm tổng mức đầu tư. Do đó, việc nghiên cứu, triển khai Chương trình nội địa hóa thiết bị là quan trọng và cần thiết trong triển khai các dự án điện hạt nhân.
Đặc biệt, chúng ta cần lưu ý giữ đúng tiến độ, hoặc rút ngắn thời gian xây dựng công trình để không bị đội vốn. Bởi nếu thời gian xây dựng điện hạt nhân bị kéo dài, vốn đầu tư sẽ đội lên rất cao. (Các dự án điện hạt nhân vừa xây dựng gần đây nhất tại Mỹ và Pháp cho thấy điều đó).
V. Về nguồn nhân lực:
1. Theo hướng dẫn của IAEA: Có 3 trụ cột chính tham gia vào một chương trình điện hạt nhân của quốc gia sẽ bao gồm: (1) Chủ đầu tư/tổ chức vận hành; (2) Cơ quan pháp quy quản lý an toàn hạt nhân; và (3) Các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật, khoa học (cho cả Cơ quan pháp quy và chủ đầu tư).
Do đó, trong giai đoạn đầu của dự án, bên cạnh việc tận dụng nguồn lực hạn chế trong nước, việc tham gia của tư vấn nước ngoài (là bắt buộc) để chúng ta có thể bổ sung khuyết thiếu, cũng như giúp các cán bộ của Việt Nam được học hỏi, tích lũy kinh nghiệm. Đặc biệt, việc thành lập một Hội đồng Tư vấn Quốc tế, bao gồm các chuyên gia hàng đầu quốc tế (từ các nước) về điện hạt nhân, an toàn hạt nhân và nhân lực hạt nhân, để đồng hành, tư vấn, khuyến cáo (không thường xuyên) cho các nhiệm vụ triển khai dự án điện hạt nhân là rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy, cần có cơ chế của Nhà nước để hình thành một Hội đồng như vậy (5-10 chuyên gia quốc tế và một vài chuyên gia trong nước).
2. Bên cạnh đó, cần triển khai ngay một chương trình nghiên cứu khoa học, công nghệ quốc gia về công nghệ và an toàn điện hạt nhân nhằm nâng cao năng lực nội tại trong nước, hướng tới quản lý vận hành an toàn, hiệu quả, cũng như tiếp thu công nghệ phục vụ lâu dài các dự án điện hạt nhân. Đào tạo đội ngũ chuyên gia về công nghệ và an toàn hạt nhân để có đủ năng lực dự báo/phòng ngừa, xử lý các vấn đề liên quan đến an toàn (nếu có xảy ra) đòi hỏi thời gian dài với một kế hoạch đào tạo bài bản, từng bước. Đội ngũ chuyên gia về điện hạt nhân là thiết yếu và vô cùng quan trọng để có thể vận hành an toàn, cũng như kinh tế các nhà máy điện hạt nhân.
3. Về nhân lực vận hành, ngoài số lượng kỹ sư đã được đào tạo trước đây (hiện chưa rõ còn có bao nhiêu người, cần được thống kê và có chính sách tập hợp lại) có thể sử dụng được khi nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận đưa vào vận hành, chúng ta vẫn cần tiếp tục đào tạo thêm các cử nhân, kỹ sư về điện hạt nhân. Nếu đến năm 2030, 2031 sẽ hoàn thành công việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận như yêu cầu của Chính phủ, thì lúc đó các kỹ sư chuyên ngành điện hạt nhân cũng cần tốt nghiệp, ra trường để bổ sung vào lực lượng vận hành. Việc đào tạo kỹ sư điện hạt nhân cần song song tiến hành, vừa đào tạo trong nước, vừa gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Đối với đào tạo trong nước, cần xây dựng một chương trình đào tạo về công nghệ điện hạt nhân tại 1-2 trường đại học kỹ thuật có năng lực tốt và truyền thống, phối hợp với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, sử dụng tối đa đội ngũ chuyên gia và cơ sở hạ tầng hạt nhân đang có của Viện, đồng thời phối hợp với đối tác nước ngoài có kinh nghiệm tốt về đào tạo nhân lực cho điện hạt nhân.
Vấn đề cần quan tâm hiện nay là cơ chế, chính sách thu hút cán bộ kỹ thuật, sinh viên được đào tạo các chuyên ngành điện hạt nhân đã trở về nước đang làm việc cho các cơ quan, tổ chức trong và ngoài EVN (trái ngành nghề) quay lại phục vụ dự án, đặc biệt chú trọng sinh viên tốt nghiệp loại giỏi trở lên được đào tạo nâng cao. Đây là nguồn nhân lực có giá trị cho các tổ chức nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, cho các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân. Từ đó có thể chuẩn bị cho các chương trình dài hạn và chủ động ứng phó trước mắt với các vấn đề hạt nhân khu vực và quốc tế.
Mặt khác, cần nghiên cứu, xây dựng lại kế hoạch đào tạo dài hạn nhân lực cho chương trình phát triển điện hạt nhân. Kế hoạch này bao gồm đào tạo đại học (trong nước kết hợp với gửi ra nước ngoài đào tạo) và đào tạo sau đại học.
Đào tạo sau đại học bao gồm các khóa đào tạo ngắn hạn (một vài tuần, vài tháng), nâng cao (một vài tháng, một vài quý), đào tạo chuyên sâu (một số năm). Còn với đào tạo qua công việc đang triển khai tại Việt Nam (ví dụ như tham gia dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Công nghệ hạt nhân và gửi sang đào tạo, làm việc tại nước ngoài) với mục đích có được đội ngũ chuyên gia đầu đàn về công nghệ và an toàn điện hạt nhân.
4. Ngoài ra, chúng ta cần quan tâm đến nhân lực phục vụ công tác thẩm định và hệ thống pháp quy hạt nhân. Một trong những bài học rút ra từ năm 2016 khi chúng ta tạm dừng triển khai dự án Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2 - đó là do năng lực của cơ quan pháp quy hạt nhân còn hạn chế. Khi chủ đầu tư EVN nộp trình thẩm định báo cáo phân tích an toàn và hồ sơ phê duyệt địa điểm thì cơ quan pháp quy hạt nhân đã mất rất nhiều thời gian để đưa ra các phương án thẩm định các báo cáo của 2 dự án.
VI. Về cơ sở pháp lý:
Quá trình triển khai các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận giai đoạn trước 2016 đã bộc lộ một số bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, gây những lo ngại đối với đối tác Nga, Nhật Bản, đặc biệt trong việc áp dụng các tiêu chuẩn của Việt Nam và nước ngoài đối với các loại công nghệ khác nhau. Hiện tại, Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt việc trình và thông qua Luật Năng lượng Nguyên tử (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV nhằm giải quyết triệt để những bất cập này. Tuy nhiên, đây cũng là một áp lực lớn để có thể có được một dự thảo Luật chất lượng trong thời gian ngắn. Đồng thời, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ cũng phải sẵn sàng chuẩn bị ngay các văn bản quy phạm dưới luật để có thể ban hành sớm, đồng bộ với Luật, cũng như đi trước thực tiễn triển khai dự án điện hạt nhân.
Mặt khác, việc Việt Nam chưa tham gia công ước về đền bù thiệt hại hạt nhân cũng sẽ là một trở ngại lớn trong quá trình đàm phán các hợp đồng sau này vì những vướng mắc trong quá trình phân định trách nhiệm của các bên tham gia dự án ngay từ đầu.
VII. Về thông tin tuyên truyền:
1. Cần tiếp tục tuyên truyền về điện hạt nhân, với nguồn thông tin chính xác, trung thực, khách quan, nhằm tạo sự hiểu biết, đồng thuận cao của công chúng về sự cần thiết, cũng như lợi ích của việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam. Trước mắt là cho 2 dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận với công nghệ điện hạt nhân tiên tiến, quy mô lớn, đã được kiểm chứng là an toàn, hiệu quả theo tiêu chí của Quốc hội Việt Nam.
2. Phối hợp tuyên truyền về điện hạt nhân cùng với ứng dụng năng lượng nguyên tử - nơi một Trung tâm truyền thông đang được triển khai tại Long Khánh (tỉnh Đồng Nai) liên quan đến dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Công nghệ Hạt nhân (CNST).
3. Điện hạt nhân là một chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật quan trọng trong phát triển nền kinh tế, xã hội, an ninh năng lượng quốc gia, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều tầng lớp công chúng và hợp tác quốc tế đa dạng. Do đó, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, cũng như Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần lựa chọn cơ quan báo chí phù hợp, để thống nhất định hướng nội dung thông tin.
4. Mặt khác, trước áp lực thời gian, tiến độ hoàn thành dự án theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ để đáp ứng nhu cầu an ninh năng lượng quốc gia, các bộ liên quan, cũng như chủ đầu tư, nhà thầu nên hợp tác với một số cơ quan báo chí (có khả năng phân tích chuyên sâu về chuyên ngành kinh tế, năng lượng và quản lý) để chủ động thực hiện các kế hoạch truyền thông phản biện, kiến nghị về cơ chế, chính sách (tại các thời điểm cần thiết) và sẵn sàng đính chính những thông tin sai lệch trên công luận như đã từng xảy ra (có thể tham khảo một ví dụ cụ thể tại đây) gây ảnh hưởng đến quá trình chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2.
5. Trong công tác truyền thông về điện hạt nhân, các thông tin cần được chọn lọc, tránh đưa các thông tin không cần thiết, hoặc số liệu thiếu chính xác, không có kiểm chứng và không đúng thời điểm./.
BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM