RSS Feed for Tổng quan năng lượng toàn cầu năm 2018 | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ hai 23/12/2024 04:18
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Tổng quan năng lượng toàn cầu năm 2018

 - Năm 2018, mặc dù bị tác động bởi cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng, nội bộ châu Âu chia rẽ, bất đồng giữa các nước lớn vẫn chưa được giải quyết, các cuộc xung đột địa - chính trị vẫn đang tiếp diễn… song kinh tế toàn cầu vẫn được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng ở mức 3,7%. Theo đó, năng lượng toàn cầu năm 2018 có sự tăng trưởng bứt phá nhất trong vòng 10 năm qua (kể từ năm 2010) trên mọi phương diện: Sản xuất, tiêu thụ, thương mại của toàn ngành, cũng như từng loại năng lượng.

Tổng quan ngành năng lượng Hoa Kỳ đến năm 2050
Tổng quan điện hạt nhân thế giới và các đề xuất cho Việt Nam

 



PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM [*]


1/ Năng lượng sơ cấp:

Tiêu thụ năng lượng sơ cấp toàn cầu năm 2018 đạt 13.864,9 triệu TOE, trong đó dầu 4.662,1 triệu TOE (33,6%), khí thiên nhiên 3.309,4 triệu TOE (23,9%), than 3.772,1 triệu TOE (27,2%), điện hạt nhân 611,3 triệu TOE (4,4%), thủy điện 948,8 triệu TOE (6,8%), năng lượng tái tạo 561,3 triệu TOE (4,1%).

Như vậy, so với năm 2017, tiêu thụ năng lượng sơ cấp toàn cầu năm 2018 tăng 390,3 triệu TOE, tương ứng 2,9%, cao gần gấp đôi mức tăng trung bình trong 10 năm qua là 1,5%/năm và nhanh nhất kể từ năm 2010. Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ đóng góp khoảng 2/3 mức tăng trưởng này. 

Theo loại nhiên liệu, tăng trưởng tiêu thụ dầu là (triệu TOE): 55,1 (1,2%); khí thiên nhiên 165,5 (5,3%); than 53,7 (1,45%); điện hạt nhân 14,2 (2,4%); thủy điện 28,9 (3,15%); năng lượng tái tạo 71,1 (15,5%).

Như vậy, tăng trưởng tiêu thụ khí đốt thiên nhiên đóng góp hơn 40% mức tăng của tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp. Tất cả các loại nhiên liệu đều có mức tăng cao hơn mức tăng trung bình 10 năm qua, ngoại trừ năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, năng lượng tái tạo vẫn chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong tăng trưởng tiêu thụ năng lượng sơ cấp toàn cầu năm 2018.

Ba nước Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ chiếm hơn 2/3 tổng nhu cầu năng lượng toàn cầu. Trong đó, Trung Quốc 34%, Mỹ 20% và Ấn Độ 15%. Đặc biệt, tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Mỹ có tốc độ tăng 3,5% nhanh nhất trong vòng 30 năm và trái ngược hoàn toàn với xu hướng suy giảm được thấy trong 10 năm vừa qua.

Tiêu thụ năng lượng sơ cấp tính theo đầu người (GJ/người): bình quân thế giới: 76,0 (tăng 1,2 GJ, tương ứng 1,74% so với năm 2017); OECD: 182,6; ngoài OECD: 54,2; EU: 138,7.

Các nước có mức tiêu thụ bình quân đầu người cao nhất (>200 GJ/người) là: Qatar (749,7), Singapore (633,0), UAE (492,3), Trinidad và Tobago (465,5), Canada (390,2), Cô-oet (388,5), Na Uy (370,6), Ả rập Xê-ud (323,4), Mỹ (294,8), Oman (266,0), Hàn Quốc (246,3), Úc (243,9), Bỉ (226,4), Turkmenistan (225,4), Thụy Điển (224,8), Phần Lan (221,1), Nga (209,6), Hà Lan (207,8).

Còn Việt Nam tiêu thụ 37,2 GJ/người, chỉ bằng 68,6% bình quân của ngoài OECD và 49% bình quân của thế giới.    

2/ Dầu:

Giá dầu trung bình năm 2018 so với năm 2017: Giá dầu Brent 71,31 USD/thùng, tăng 17,12 USD/thùng (bằng 31,6%) so với mức 54,19 USD/thùng trong năm 2017. Giá dầu Dubai tương ứng là: 69,51; 16,38 (30,8%); 53,13 và giá dầu WTI: 65,20; 14,41 (28,4%); 50,79.

Mặc dù giá dầu tăng cao, song tiêu thụ dầu toàn cầu năm 2018 vẫn tăng và đạt 4.662,1 triệu TOE, tăng 55,1 triệu TOE (1,2%) so với năm 2017. Tính theo thùng/ngày là 99.843 ngàn thùng/ngày, tăng 1,4 triệu thùng/ngày, tương ứng 1,5% so với năm 2017. Trong đó, Trung Quốc (tăng 680.000 thùng/ngày) và Mỹ (tăng 500.000 thùng/ngày) là hai nước đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng tiêu thụ dầu.

Các nước tiêu thụ dầu lớn nhất là (triệu TOE): Mỹ 919,7 (19,7%), Trung Quốc 641,2 (13,8%), Ấn Độ 239,1 (5,1%), Nhật Bản 182,4 (3,9%), Ả rập Xê-ud 162,6 (3,5%), Nga 152,3 (3,3%), Brazin 135,9 (2,9%), Hàn Quốc 128,9 (2,8%), Đức 113,2 (2,4%), Canađa 110,0 (2,4%). Tổng cộng 10 nước chiếm 59,8% tiêu thụ dầu toàn cầu.

Sản lượng dầu toàn cầu năm 2018 đạt 4.474,3 triệu TOE, tăng 94,4 triệu TOE (2,2%) so với năm 2017. Tính theo thùng/ngày đạt 94.718 nghìn thùng/ngày, tăng 2.216 nghìn thùng/ngày, tương ứng 2,4%. Hầu như toàn bộ mức gia tăng ròng này là do Hoa Kỳ với mức tăng trưởng sản lượng khoảng 2,2 triệu thùng/ngày, là một kỷ lục tăng trưởng chưa từng có từ trước tới nay trên thế giới.

Tại những nước khác, tăng trưởng sản lượng ở Canada 410.000 thùng/ngày và Ả Rập Xê-ud 390.000 thùng/ngày đã gần như cân bằng được sự sụt giảm sản lượng ở Vênêzuêla: 580.000 thùng/ngày và Iran: 310.000 thùng/ngày.     

Các nước sản xuất dầu lớn nhất là (triệu TOE): Mỹ 669,4 (15,0%), Ả rập Xê-ud 578,3 (12,9%), Nga 563,3 (12,6%), Canada 255,5 (5,7%), Iraq 226,1 (5,1%), Iran 220,4 (4,9%), Trung Quốc 189,1 (4,2%), UAE 177,7 (4,0%), Cô-oet 146,8 (3,3%), Brazin 140,3 (3,1%), Mexico 102,3 (2,3%), Nigeria 98,2 (2,2%), Kazakhstan 91,2 (2,0%). Tổng cộng 13 nước chiếm 77,3% tổng sản lượng dầu toàn cầu.     

Sản lượng lọc dầu năm 2018 đạt 82.953 ngàn thùng/ngày, tăng 961 ngàn thùng/ngày so với năm 2017, mức tăng này giảm so với mức tăng 1.491 ngàn thùng/ngày của năm 2017. Tuy nhiên, mức sử dụng công suất lọc dầu trung bình toàn cầu đã đạt 82,9% tiệm cận tới mức cao nhất của năm 2007.    

Thương mại dầu toàn cầu đạt 71.344 ngàn thùng/ngày, tăng 1,9% so với năm 2017. Các nước/khu vực xuất khẩu dầu nhiều nhất là (ngàn thùng/ngày): Trung Đông (không gồm Arập Xê-ud) 16.087 (22,5%), Nga 9.159 (12,8%), Arập Xê-ud 8.553 (12,0%), châu Á - Thái Bình Dương (không kể Nhật Bản) 7.527 (10,6%), Mỹ 7.131 (10,0%), Tây Phi 4.572 (6,4%), Canađa 4.530 (6,3%), Nam và Trung Mỹ 3.745 (5,2%). Các nước/khu vực nhập khẩu dầu chính là EU 15.124 (21,2%), Trung Quốc 11.039 (15,5%), Mỹ 9.929 (13,9%), Ấn Độ 5.223 (7,3%), Nhật Bản 3.941 (5,5%).    

3/ Khí đốt thiên nhiên:    

Tiêu thụ khí đốt thiên nhiên toàn cầu năm 2018 đạt 3.848,9 tỷ m3, tăng 195 tỷ m3 (5,3%) so với năm 2017, một trong những mức tăng trưởng nhanh nhất kể từ năm 1984.      

Tăng trưởng tiêu thụ khí đốt chủ yếu do Hoa Kỳ (tăng 78 tỷ m3), Trung Quốc (tăng 43 tỷ m3), Nga (tăng 23 tỷ m3) và Iran (16 tỷ m3).

Các nước tiêu thụ khí đốt thiên nhiên chủ yếu là (tỷ m3): Mỹ 817,1 (21,2%), Nga 454,5 (11,8%), Trung Quốc 283,0 (7,4%), Iran 225,6 (5,9%), Nhật Bản 115,7 (3,0%), Canađa 115,7 (3,0%), Ả rập Xê-ud 112,1 (2,9%), Mexico 89,5 (2,3%), Đức 88,3 (2,3%), Vương quốc Anh 78,9 (2,0%), UAE 76,6 (2,0%). Tổng cộng 11 nước chiếm 63,8% tiêu thụ khí đốt thiên nhiên toàn cầu.   

Sản lượng khí đốt tự nhiên toàn cầu năm 2018 đạt 3.867,9 tỷ m3, tăng 190 tỷ m3 (5,2%) so với năm 2017. Gần một nửa trong số tăng này đến từ Hoa Kỳ (86 tỷ m3), cũng giống như sản xuất dầu đây là mức tăng trưởng hàng năm lớn nhất chưa từng có từ trước đến nay trong lịch sử. Nga (tăng 34 tỷ m3), Iran (tăng 19 tỷ m3) và Úc (tăng 17 tỷ m3) là những nước đóng góp lớn nhất tiếp theo cho sự tăng trưởng sản lượng khí đốt thiên nhiên toàn cầu.     

Các nước sản xuất khí lớn nhất gồm (tỷ m3): Mỹ 831,8 (21,5%), Nga 669,5 (17,3%), Iran 239,5 (6,2%), Canada 184,7 (4,8%), Qatar 175,5 (4,5%), Trung Quốc 161,5 (4,2%). Tổng cộng 6 nước chiếm 58,5% tổng sản lượng khí đốt thiên nhiên toàn cầu.     

Thương mại khí đốt thiên nhiên liên khu vực đạt 943,4 tỷ m3, tăng 39 tỷ m3 (4,3%) so với năm 2017, cao hơn gấp đôi mức tăng trung bình hàng năm trong 10 năm qua, chủ yếu nhờ tiếp tục mở rộng nhanh chóng khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), tăng 37,1 tỷ m3.    

Tăng trưởng nguồn cung LNG chủ yếu đến từ Úc (tăng 15 tỷ m3), Mỹ (tăng 11 tỷ m3) và Nga (tăng 9 tỷ m3). Trung Quốc chiếm khoảng một nửa mức tăng nhập khẩu (tăng 21 tỷ m3).    

4/ Than:     

Tiêu thụ than toàn cầu năm 2018 đạt 3.772,1 triệu TOE, tăng 53,7 triệu TOE (1,4%) so với năm 2017, cao gấp đôi mức tăng trưởng trung bình hàng năm trong 10 năm qua là 0,7%/năm. Đây là năm thứ 2 nhu cầu than tăng liên tiếp, sau ba năm sụt giảm. Nhu cầu than gia tăng chủ yếu cho sự gia tăng của sản xuất điện.     

Tăng trưởng tiêu thụ than cao nhất tại Ấn Độ (tăng 36 triệu TOE) và Trung Quốc (tăng 16 triệu TOE). Nhu cầu than của OECD chỉ còn 861,3 triệu TOE, giảm 31,6 triệu TOE so với năm 2017, xuống mức thấp nhất kể từ năm 1975. Tuy nhiên, tính theo đầu người, tiêu thụ than bình quân của OECD vẫn đạt 0,66 TOE/người, cao hơn 0,17 TOE/người, tương ứng 34,7% so với bình quân của thế giới 0,49 TOE/người.     

Các nước tiêu thụ than chủ yếu là (triệu TOE): Trung Quốc 1.906,7 (50,5%), Ấn Độ 452,2 (12,0%), Mỹ 317,0 (8,4%), Nhật Bản 117,5 (3,1%), Hàn Quốc 88,2 (2,3%), Nga 88,0 (2,3%), Nam Phi 86,0 (2,3%), Đức 66,4 (1,8%), Inđônêxia 61,6 (1,6%), Ba Lan 50,5 (1,3%), Úc 44,3 (1,2%), Thổ Nhĩ Kỳ 42,3 (1,1%), Kazakhstan 40,8 (1,1%), Đài Loan 39,3 (1,0%). Tổng cộng 14 nước chiếm 90% tổng tiêu thụ than toàn cầu.

Còn Việt Nam tiêu thụ 34,3 triệu TOE, chiếm 0,9% tổng tiêu thụ than toàn cầu.    

Tỷ trọng than trong năng lượng sơ cấp giảm nhẹ từ 27,6% năm 2017 xuống 27,2% năm 2018, mức thấp nhất trong 15 năm qua.     

Sản lượng than toàn cầu đạt 3.916,8 triệu TOE (tương ứng 7.991 triệu tấn), tăng 162 triệu TOE (tương ứng 330,5 triệu tấn) bằng 4,3% so với năm 2017. Trong đó Trung Quốc (tăng 82 triệu TOE) và Inđônêxia (tăng 51 triệu TOE) đóng góp lớn nhất vào mức tăng sản lượng than toàn cầu.     

Các nước sản xuất than nhiều nhất gồm (triệu TOE): Trung Quốc 1.828,8 (46,7%), Mỹ 364,5 (9,3%), Inđônêxia 323,3 (8,3%), Ấn Độ 308,0 (7,9%), Úc 301,1 (7,7%), Nga 220,2 (5,6%), Nam Phi 143,2 (3,7%). Tổng cộng 7 nước chiếm 89,2% tổng sản lượng than thế giới.

Tính theo tấn than thông thường thì sản lượng than của các nước là (triệu tấn): Trung Quốc 3.653 (45,7%), Mỹ 685,5 (8,6%), Inđônêxia 552,2 (6,9%), Ấn Độ 767,9 (9,6%), Úc 485 (6,1%), Nga 440,6 (5,5%), Nam Phi 253,7 (3,2%), Đức 168,7 (2,1%), Ba Lan 122,6 (1,5%), Kazakhsta 118 (1,5%).     

Thương mại than toàn cầu năm 2018 đạt 858,8 triệu TOE, tăng 6,5% so với năm 2017, cao gấp 1,71 lần mức tăng bình quân trong 10 năm qua là 3,8%/năm.     

Các nước/khu vực nhập khẩu than chính là (triệu TOE): EU 149,6 (17,4%), Trung Quốc 146,5 (17,1%), Ấn Độ 141,7 (16,5%), Nhật Bản 119,7 (13,9%), Hàn Quốc 92,7 (10,8%).     

Các nước xuất khẩu than chủ yếu (triệu TOE): Úc 249,4 (29,0%), Inđônêxia 220,3 (25,7%), Nga 136,2 (15,9%), Mỹ 66,3 (7,7%), Nam Phi 49,2 (5,7%), Colombia 46,7 (5,4%), Mông Cổ 23,9 (2,8%), Canađa 21,0 (2,4%). 

5/ Năng lượng tái tạo, nhiên liệu sinh học, thủy điện và điện hạt nhân:   

Năng lượng tái tạo:

Tiêu thụ năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió và các dạng năng lượng tái tạo khác) toàn cầu năm 2018 đạt 561,3 triệu TOE, tăng 71,1 triệu TOE (14,5%) so với năm 2017. Mức tăng này thấp hơn gần 2% so với mức tăng trung bình trong 10 năm qua là 16,4%/năm. Tuy nhiên, mức tăng về lượng (71,1 triệu TOE) gần với mức tăng kỷ lục của năm 2017 (73,4 triệu toe). Đây vẫn là nguồn năng lượng tăng trưởng nhanh nhất trong các nguồn năng lượng trên thế giới.

Phát điện từ các nguồn năng lượng tái tạo: Tổng sản lượng điện năng lượng tái tạo toàn cầu năm 2018 đạt 2.840,4 tỷ kWh (tăng 313,9 tỷ kWh, tương ứng 14,5% so với năm 2017). Trong đó, điện gió 1.270 tỷ kWh (chiếm 51,2%), điện năng lượng mặt trời 584,6 tỷ kWh (chiếm 23,6%) và điện năng từ các dạng năng lượng tái tạo khác 625,8 tỷ kWh (chiếm 25,2%).

So với năm 2017, điện gió tăng 142 tỷ kWh, bằng 12,6%; điện mặt trời tăng 131,1 tỷ kWh, bằng 28,9% và điện từ các nguồn năng lượng tái tạo khác tăng 40,8 tỷ kWh, bằng 7%. Như vậy, điện gió đóng góp 45,2% tăng trưởng điện năng lượng tái tạo, tiếp theo là điện mặt trời đóng góp 41,8%.    

Theo quốc gia, Trung Quốc tiếp tục là nước đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng năng lượng tái tạo (tăng 32 triệu TOE tương đương 141,8 tỷ kWh), vượt qua mức tăng trưởng của toàn bộ OECD (tăng 26 triệu TOE tương đương 115,5 tỷ kWh).      

Các nước có sản lượng điện năng lượng tái tạo nhiều nhất gồm (tỷ kWh): Trung Quốc 634,2 (25,6%), Mỹ 458,5 (18,5%), Đức 209,2 (8,4%), Ấn Độ 121,5 (4,9%), Nhật Bản 112,1  (4,5%), Vương quốc Anh 105,6 (4,3%), Brazin 104,5 (4,2%). Tổng cộng 7 nước chiếm 70,4% điện năng lượng tái tạo toàn cầu.     

Nhiên liệu sinh học:

Sản lượng nhiên liệu sinh học toàn cầu năm 2018 đạt 95.371 nghìn TOE, tăng 8.452 nghìn TOE (9,7%), cao hơn mức tăng bình quân 10 năm qua là 9,0%. Đóng góp vào vào mức tăng trưởng này chủ yếu là (nghìn TOE): Brazin 3.135; Inđônêxia 2.163; Mỹ 956; Trung Quốc 952; Ấn Độ 421; tổng cộng 5 nước 7.627 nghìn TOE, tương ứng 88,7%.    

Các nước có sản lượng nhiên liệu sinh học lớn nhất gồm (nghìn TOE): Mỹ 38.088 (39,9%), Brazin 21.375 (22,4%), Inđônêxia 4.849 (5,1%), Đức 3.445 (3,6%), Trung Quốc 3.099 (3,2%). Tổng cộng 5 nước chiếm 74,2% sản lượng nhiên liệu sinh học toàn cầu.   

Thủy điện:

Sản lượng thủy điện thế giới năm 2018 đạt 948,8 triệu TOE, tăng 28,9 triệu TOE (3,1%) so với năm 2017, chủ yếu nhờ sự phụ hồi sản lượng của châu Âu 12,9 triệu TOE (9,8%), gần như bù đắp được sự sụt giảm mạnh của châu lục này trong năm trước. Tiếp theo là Trung Quốc tăng 8,5 triệu TOE (3,2%) và  Brazin tăng 3,8 triệu TOE (4,5%).     

Các nước có sản lượng thủy điện lớn nhất là (triệu TOE): Trung Quốc 272,1 (28,7%), Brazin 87,7 (9,2%), Canađa 87,6 (9,2%), Mỹ 65,3 (6,9%), Nga 43,0 (4,5%), Ấn Độ 31,6 (3,3%), Na Uy 31,3 (3,3%). Tổng cộng 7 nước chiếm 65,1% sản lượng thủy điện thế giới.       

Điện hạt nhân:

Sản lượng điện hạt nhân toàn cầu năm 2018 đạt 611,3 triệu TOE, tăng 14,2 triệu TOE (2,4%) so với năm 2017, mức tăng trưởng nhanh nhất kể từ năm 2010. Trung Quốc (tăng 10 triệu TOE) đóng góp phần lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu, tiếp theo là Nhật Bản (tăng 5 triệu TOE). Các nước có điện hạt nhân nhiều nhất là (triệu TOE): Mỹ 192,2 (31,4%), Pháp 93,5 (15,3%), Trung Quốc 66,6 (10,9%), Nga 46,3 (7,6%), Hàn Quốc 30,2 (4,9%), Canađa 22,6 (3,7%), Ucraina 19,1 (3,1%), Đức 17,2 (2,8%), Thụy Điển 15,5 (2,5%), Vương quốc Anh 14,7 (2,4%), Tây Ban Nha 12,6 (2,1%), Nhật Bản 11,1 (1,8%). Tổng cộng 12 nước chiếm 88,5% tổng sản lượng điện hạt nhân toàn cầu.      

6/ Điện năng:   

Sản lượng điện toàn cầu năm 2018 đạt 26.614,8 tỷ kWh, trong đó (tỷ kWh): điện dầu 802,8 (3,0%); điện khí 6.182,8 (23,2%); điện than 10.100,5 (38,0%); điện hạt nhân 2.701,4 (10,1%), thủy điện 4.193,1 (15,8%), điện năng lượng tái tạo 2.480,4 (9,3%); điện khác 153,8 (0,6%). Như vậy, so với năm 2017, tỷ trọng điện dầu giảm từ 3,4% xuống 3,0%; điện khí và điện than vẫn giữ nguyên là 23,2% và 38%; điện hạt nhân tăng nhẹ từ 10,1% lên 10,3%; điện năng lượng tái tạo đã tăng từ 8,4% lên 9,3%; điện khác giảm từ 0,7% xuống 0,6%.

So với năm 2017, sản lượng điện toàn cầu tăng 938,2 kWh, bằng 3,7%, cao hơn mức tăng trung bình 10 năm gần đây (2,5%/năm) và là một trong những mức tăng cao nhất trong vòng 20 năm qua. Trong đó, Trung Quốc tăng 507,3 tỷ kWh, chiếm hơn một nửa mức tăng trưởng toàn cầu, tiếp theo là Mỹ 158,3 tỷ kWh và Ấn Độ 90,8 tỷ kWh.

Theo loại nhiên liệu: điện dầu giảm 67,2 tỷ kWh (-7,7%), điện khí tăng 230 tỷ kWh (3,9%), điện than tăng 294,3 tỷ kWh (3,0%), điện hạt nhân tăng 62,4 tỷ kWh (2,4%), thủy điện tăng 127,7 tỷ kWh (3,15%), điện năng lượng tái tạo tăng 313,9 tỷ kWh (14,5%), điện khác giảm 22,9 tỷ kWh (-13,0%). Qua đó cho thấy, đóng góp vào mức tăng trưởng ròng điện năng năm 2018 cao nhất là điện khí 33,5%; tiếp theo là điện than 31,4%; điện khí 24,5% và thủy điện 13,6%.    

Ngoài nguyên nhân tăng trưởng kinh tế (tăng 3,7%), tiêu thụ năng lượng năm 2018 của toàn cầu tăng cao có thể liên quan đến hiệu ứng thời tiết. Đặc biệt, đã có một số lượng lớn ngày nóng và lạnh bất thường trên nhiều trung tâm nhu cầu lớn năng lượng của thế giới vào năm ngoái, nhất là ở Mỹ, Trung Quốc và Nga. Theo đó, nhu cầu gia tăng về các dịch vụ làm mát và sưởi ấm giúp giải thích sự tăng trưởng mạnh mẽ trong tiêu thụ năng lượng ở các quốc gia này.  

Như vậy, xét trên phạm vi toàn cầu năm 2018 sản xuất và tiêu thụ điện năng có sự tăng trưởng bứt phá so với bình quân trong vòng 10 năm qua. Đóng vai trò chính trong sự tăng trưởng đó là Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ. Đặc biệt, nhiệt điện than không những không giảm mà vẫn tiếp tục tăng mạnh và giữ vai trò chính trong việc đáp ứng nhu cầu điện của nhân loại, chiếm tỷ trọng cao nhất 38%, vượt xa điện khí đứng thứ hai là 23,2%. Điện năng từ các nguồn năng lượng tái tạo tuy có sự tăng trưởng cao nhất, song chỉ để góp phần đáp ứng nhu cầu điện tăng lên là chính chứ không phải là để thay thế các nguồn điện truyền thống. Các nguồn điện truyền thống gồm điện than, điện khí, thủy điện và điện hạt nhân vẫn giữ vai trò nền tảng, trụ cột đáp ứng nhu cầu điện, đảm bảo sự ổn định, an ninh hệ thống điện của mọi quốc gia trên thế giới./.

[*] Tạp chí Năng lượng Việt Nam; Khoa Quản lý Công nghiệp và Năng lượng - EPU.


Tài liệu tham khảo:

1/ BP Statistical Review of World Energy 2019.

2/ Kinh tế thế giới 2018: Phân hóa tăng trưởng. Kinh tế 2018-2019 Việt Nam và thế giới. Thời báo Kinh tế Việt Nam.

 

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động