Nhập khẩu than cho điện của Việt Nam: Thách thức và giải pháp [Kỳ 5]
07:39 | 29/08/2018
Nhập khẩu than cho điện của Việt Nam: Thách thức và giải pháp [Kỳ 1]
Nhập khẩu than cho điện của Việt Nam: Thách thức và giải pháp [Kỳ 2]
Nhập khẩu than cho điện của Việt Nam: Thách thức và giải pháp [Kỳ 3]
Nhập khẩu than cho điện của Việt Nam: Thách thức và giải pháp [Kỳ 4]
KỲ 5: NHU CẦU VÀ THỰC TRẠNG NHẬP KHẨU THAN CỦA VIỆT NAM (PHẦN 2)
PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM; TS. NGUYỄN THÀNH SƠN - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Tình hình thực hiện đầu tư xây dựng cảng biển nhập khẩu than
Việt Nam từ trước đến nay luôn là nước xuất khẩu than, các hoạt động nhập khẩu than chủ yếu là nhỏ lẻ và do các doanh nghiệp tự thực hiện. Vì vậy, trước tình hình sẽ phải nhập khẩu than số lượng lớn trong những năm tới đây, chúng ta vẫn còn rất yếu và rất thiếu về cơ sở hạ tầng như cảng nước sâu, hệ thống kho bãi trung chuyển, khả năng vận chuyển quốc tế và nội địa, v.v…
Để phục vụ việc nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện than với sản lượng dự kiến (nêu trong kỳ 4), chủ yếu cho các nhà máy từ miền Trung trở vào, yêu cầu ít nhất phải có 01 cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu có trọng tải lớn >100.000 DWT đưa vào sử dụng để có thể giảm chi phí nhập khẩu than cho các nhà máy điện. QH 403/2016 đề ra định hướng là: Xây dựng mới, đầu tư nâng cấp, mở rộng các cảng hiện có đáp ứng nhu cầu nhập khẩu than theo từng giai đoạn, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển các cảng biển Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó:
1/ Giai đoạn đến năm 2020: Đầu tư xây dựng mới cảng biển Duyên Hải - Trà Vinh với công suất đến 40 triệu tấn than/năm, tiếp nhận được tàu có tải trọng đến 80.000 ÷ 160.000 DWT nhằm phục vụ việc nhập khẩu than cung cấp cho Trung tâm Điện lực Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh) với tổng công suất thiết kế 4.200 MW.
2/ Giai đoạn 2021 ÷ 2030: Đầu tư cải tạo và mở rộng nâng cấp cảng Hòn Nét với công suất đến 30 triệu tấn than/năm, tiếp nhận được tàu có tải trọng đến 100.000 DWT. Đầu tư cải tạo mở rộng cảng Hà Tĩnh (khu bến Sơn Dương) với công suất đến 35 triệu tấn than/năm, tiếp nhận được tàu có tải trọng đến 200.000 DWT.
Tuy nhiên, đến nay TKV - đơn vị được giao làm chủ đầu tư dự án Cảng biển Duyên Hải - Trà Vinh đã có văn bản trình Bộ Công Thương xin dừng công tác nghiên cứu và lập dự án đầu tư cảng này.
Do vậy, hiện nay tại miền Nam Việt Nam chưa có cảng nào có khả năng tiếp nhận trực tiếp tàu có tải trọng đến cỡ Panamax (72.000 DWT).
Hơn nữa, các nhà máy nhiệt điện than tập trung nhiều ở vùng Duyên Hải, Trung Nam bộ, địa hình có nhiều sông ngòi, cự ly vận chuyển xa, phương án tốt nhất để vận chuyển than về cảng nhà máy điện là bằng đường sông. Song, hiện tại năng lực vận chuyển đường sông nội địa trên toàn quốc là khoảng 500.000 tấn, chủ yếu là sà lan 1.000 ÷ 2.000 tấn, chỉ đáp ứng được khoảng 10 triệu tấn/năm (với chu trình 2 chuyến/tháng).
Chính sách nhập khẩu than
Việt Nam đã nhập khẩu than từ lâu, chủ yếu là than mỡ làm cốc cho luyện kim, từ năm 2014 ÷ 2017 bắt đầu nhập than nhiệt với khối lượng tổng cộng khoảng 38 triệu tấn. Điều đặc biệt cần lưu ý là việc đấu thầu cung cấp than nhập khẩu cho các nhà máy nhiệt điện than của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) theo hình thức: đấu thầu rộng rãi quốc tế với điều kiện cấp hàng là CIF cảng nhận hàng. Do hình thức mua than này không phù hợp với thông lệ quốc tế, nên mặc dù các Trung tâm nhiệt điện than của EVN có vị trí bên bờ biển khá thuận lợi cho việc nhập khẩu than, EVN vẫn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc trong việc nhập khẩu than như sau:
Thứ nhất: Các chủ mỏ và nhà cung cấp lớn không tham gia đấu thầu khi điều kiện cấp hàng là CIF cảng nhận hàng, nhất là khi chuỗi cung ứng than phức tạp. Chủ yếu chỉ có các công ty thương mại nhỏ lẻ tham gia đấu thầu trực tiếp.
Thứ hai: Chất lượng giao hàng không đồng nhất trong toàn bộ gói thầu, nguồn cung không cụ thể, không ổn định do các đơn vị trúng thầu phải đi mua "gom" than trôi nổi trên thị trường của Indonesia.
Thứ ba: Trúng thầu thường là các đơn vị cung cấp dịch vụ logistics trong nước nên không có môn về than.
Thứ tư: Do cảng tiếp nhận và phương án logistics chưa hoàn thiện, nên đã phát sinh chi phí dôi nhật tàu lớn (khoảng 10 triệu USD).
Thứ năm: Điều kiện thanh toán trong các Hồ sơ mời thầu của EVN không phù hợp với thông lệ quốc tế, có nhiều rủi ro cho bên bán, làm cho các tập đoàn kinh doanh than quốc tế lớn chỉ mua các hồ sơ mời thầu, nhưng đều từ chối tham gia (không nộp hồ sơ dự thầu và/hoặc chỉ bán than cho EVN thông qua các doanh nghiệp khác).
Ngoài ra, mặc dù Chính phủ đã ban hành một số văn bản về công tác nhập khẩu than, song không có văn bản thống nhất chỉ đạo phương án điều hành cung ứng than cho nhiệt điện nên có khó khăn cho công tác tổ chức nhập khẩu than. Chẳng hạn:
1/ Thông báo số 346/TB-VPCP ngày 26/8/2014 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó TTg Hoàng Trung Hải đối với các đầu mối nhập khẩu than: Cho phép đàm phán trực tiếp với các doanh nghiệp xuất khẩu than "Khẩn trương chuyển đổi các Hợp đồng nguyên tắc đã ký với các đối tác thành các hợp đồng mua bán dài hạn".
2/ Để bảo đảm việc nhập khẩu than cho sản xuất điện có hiệu quả, duy trì nguồn cung ổn định dài hạn, chất lượng phù hợp với yêu cầu của nhà máy điện với giá cạnh tranh, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, ngày 16/01/2017, Thủ tướng Chính phủ có Văn bản số 46/TTg-CN về việc cung cấp than cho sản xuất điện. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo: "Các đơn vị cung cấp than (TKV, TCT Đông Bắc và các đơn vị khác) làm việc với EVN để xây dựng kế hoạch cung cấp than ổn định, lâu dài đáp ứng phục vụ cho các NMNĐ của EVN theo đúng quy định của pháp luật".
Tuy nhiên, cho đến nay, các bên cung cấp than và EVN vẫn chưa đạt được những thỏa thuận cung cấp than mang tính bền vững và lâu dài.
3/ Tiếp theo các chỉ đạo của Chính phủ đã thiên về hướng cho phép các NMNĐ được chủ động hơn trong việc nhập khẩu than thay vì phải thông qua các đơn vị đầu mối. Tại công văn số 2172/VPCP-CN ngày 10/3/2017 của Văn phòng Chính phủ nêu rõ: "Chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện than (gồm cả chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện BOT, chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài…) chịu trách nhiệm thu xếp nguồn than để cung cấp cho nhà máy theo quy định (trực tiếp nhập khẩu, hoặc mua than qua đầu mối là TKV, TCT Đông Bắc, hoặc qua doanh nghiệp thương mại)".
Như vậy, thị trường kinh doanh than nhập khẩu ở Việt Nam thực sự mở cửa đối với các doanh nghiệp kinh doanh than trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả chủ trương này, các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu than trực tiếp của Việt Nam cần có sự hướng dẫn và quản lý để không xẩy ra tình trạng "tranh mua" trên thị trường quốc tế, làm cho giá than (FOB) bị đẩy lên cao.
4/ Chỉ đạo mới nhất của Bộ Công Thương (Thông báo số 69/TB-BCT ngày 27/03/2018) yêu cầu sử dụng phương thức đấu thầu quốc tế rộng rãi khi mua than nhập khẩu. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, các bên mua than (các dự án nhiệt điện) đã đưa ra trong hồ sơ mời thầu những điều khoản là điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, dẫn đến những khó khăn như đã nêu trên. Ngoài ra, các NMNĐ khi chủ động mua than nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn so với các đơn vị đầu mối vì không có đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp để tiếp cận thị trường luôn biến động phức tạp, chuẩn bị cơ sở hạ tầng vận chuyển, chuyển tải và chế biến than.
Để khắc phục tình trạng nêu trên, Bộ Công Thương cần xem xét, chỉ đạo EVN và PVN thực hiện quản lý thống nhất việc đấu thầu nhập khẩu than cho điện tương tự như nhập khẩu thuốc chữa bệnh của ngành y tế. Theo đó, EVN và PVN nên trực tiếp tổ chức đấu thầu tập trung (một đầu mối ở tập đoàn) theo phương thức mua các "lô hàng lớn" và "dài hạn" (thay vì để các đơn vị thành viên đấu thầu mua lẻ và ngắn hạn như vừa qua). Có như vậy, mới nhập khẩu được than có chất lượng ổn định, với giá (FOB) thấp của các công ty thương mại lớn có kinh nghiệm và chuyên về cung cấp than, khắc phục được những bất cập (tiêu cực) như đã xẩy ra trong thời gian qua.
Đến nay, tham gia thị trường nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện chạy than ngoài TKV, TCT Đông Bắc còn có PV Power Coal thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) nhập khẩu cho các dự án nhiệt điện của PVN; EVN nhập khẩu than cho các dự án nhiệt điện sử dụng than nhập khẩu của EVN. Các chủ đầu tư, BOT tự nhập cho các dự án nhà máy nhiệt điện than của mình và nhiều doanh nghiệp thương mại trong và ngoài nước khác tham gia cung ứng than nhập khẩu về Việt Nam. Số doanh nghiệp tham gia thị trường nhập khẩu than cho điện năm 2016 ngoài TKV và TCT Đông Bắc theo thống kê lên tới 55 doanh nghiệp.
Đối với TKV và TCT Đông Bắc là hai đơn vị vừa khai thác than trong nước (có chi phí/giá thành cao hơn) vừa được nhập khẩu than từ nước ngoài (có giá thấp hơn nhiều) để cung cấp cho các dự án nhiệt điện (trực tiếp, hoặc thông qua đấu thầu), Bộ Công Thương cần hướng dẫn cho hai đơn vị này có cơ chế quản lý và hạch toán minh bạch để tránh tình trạng lợi dụng chênh lệch giá trong cấp than cho các nhà máy nhiệt điện.
Về cơ chế xác định giá than nhập khẩu: Đã được hướng dẫn trong thông tư số 13/TT-BCT/2017 của Bộ Công Thương. Tuy nhiên, các hạng mục như chi phí quản lý, hao hụt khi vận chuyển vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
Đến nay, Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào thực hiện đầu tư khai thác than ở nước ngoài, mà mới chỉ có Công ty nhiệt điện An Khánh đã thành lập công ty liên doanh để khai thác than ở Inđônêxia với sản lượng khoảng 3 - 5 triệu tấn/năm.
Đón đọc kỳ tới: Nhu cầu và thực trạng nhập khẩu than của Việt Nam (Phần 3)
Lưu ý: Mọi trích dẫn và sử dụng bài viết này cần được sự đồng ý của tác giả thông qua Tạp chí Năng lượng Việt Nam bằng văn bản.