Điện mặt trời mái nhà ở miền Bắc theo Quy hoạch VIII - Đề xuất hoàn thiện chính sách mới
06:58 | 15/04/2024
Để phát triển điện mặt trời ‘tự sản, tự tiêu’ ở Việt Nam có hiệu quả kinh tế Như chúng ta đều biết, Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu đến năm 2030 có 50% tòa nhà công sở, nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu, Bộ Công Thương đề xuất cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà lắp đặt tại nhà ở, công sở, doanh nghiệp để tự sử dụng (không bán điện cho tổ chức, cá nhân khác). Sau khi chính sách được đề xuất, BBT Tạp chí Năng lượng Việt Nam đã nhận được nhiều ý kiến trao đổi tâm huyết. Dưới đây, chúng tôi tổng hợp các ý kiến nêu trên, cùng một số nhận xét bổ sung để bạn đọc tham khảo. |
Tính toán hiệu quả hệ thống điện mặt trời mái nhà (khu vực Hà Nội) Trong bài viết dưới đây, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam phân tích hiệu quả kinh tế, kỹ thuật, môi trường khi lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà (tự dùng) từ 5 kWp đến 2.000 kWp tại Hà Nội. Trong khuôn khổ bài viết không thể đề cập hết các kết quả tính toán, vì vậy, nếu bạn đọc quan tâm, có thể liên hệ với tác giả (*). |
Kết quả tính toán hiệu quả kinh tế và tổn thất của điện mặt trời mái nhà tự dùng Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng tái tạo, không cạn kiệt. Nguồn điện từ điện mặt trời mái nhà giúp tiết kiệm chi phí tiền điện do không sử dụng điện lưới, hoặc giảm chi phí tiền điện theo giá điện sinh hoạt bậc thang; chi phí vận hành và bảo trì thấp; suất đầu tư đối với điện mặt trời giảm bình quân trên 10%/năm trong những năm gần đây; làm giảm lượng khí thải carbon gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Ngoài ra, sử dụng điện mặt trời còn làm tăng thêm khả năng cạnh tranh hàng hoá khi áp dụng chứng chỉ xanh. (Tính toán, phân tích của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam). |
Điện mặt trời mái nhà tự dùng - Giải pháp kinh tế, môi trường bền vững cho Việt Nam Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng tái tạo, không cạn kiệt. Nguồn điện từ điện mặt trời mái nhà giúp tiết kiệm chi phí tiền điện do không sử dụng điện lưới, hoặc giảm chi phí tiền điện theo giá điện sinh hoạt bậc thang; chi phí vận hành và bảo trì thấp; suất đầu tư đối với điện mặt trời giảm bình quân trên 10%/năm trong những năm gần đây; làm giảm lượng khí thải carbon gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Ngoài ra, sử dụng điện mặt trời còn làm tăng thêm khả năng cạnh tranh hàng hoá khi áp dụng chứng chỉ xanh. (Tính toán, phân tích của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam). |
Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 11 tháng 2 năm 2020 đã khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng (bao gồm điện gió, mặt trời), trong đó có điện mặt trời mái nhà (ĐMTMN).
I. Hiện trạng điện mặt trời mái nhà ở Việt Nam:
1. Hiện trạng:
Tính đến ngày 31/12/2023 các tổng công ty điện lực, công ty điện lực đang thực hiện hợp đồng mua bán ĐMTMN với các tổ chức, cá nhân tại 103.509 hệ thống, với công suất lắp đặt khoảng 9.595.853 kWp được lắp đặt theo cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam (theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg và Quyết định số 13/2020-QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Theo số liệu tổng hợp, tổng sản lượng điện phát lên hệ thống điện quốc gia trong năm 2023 là 11,135 tỷ kWh, chiếm 3,97% tổng sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống.
Cụ thể, các hệ thống ĐMTMN đã ký hợp đồng mua bán điện (PPA) với EVN năm 2023 như bảng tổng hợp dưới đây:
STT | Đơn vị | Tổng số dự án/hệ thống ĐMTMN | Tổng công suất đặt (kWp) | Tổng sản lượng bán cho EVN (kWh) | Sản lượng trung bình 01 kWp bán cho EVN /năm | Tỷ lệ lệ % theo công suất đặt | Tỷ lệ % theo sản lượng bán cho EVN | |
| ||||||||
| ||||||||
| EVN | 103.509 | 9.595.853 | 11.135.338.198 | 1.160,43 |
|
|
|
1 | EVNNPC | 8.703 | 582.381 | 513.256.724 | 881,31 | 6,07 | 4,61 |
|
2 | EVNSPC | 53.701 | 5.559.869 | 6.569.559.245 | 1.181,60 | 57,94 | 59,00 |
|
3 | EVNCPC | 24.935 | 3.066.389 | 3.761.801.769 | 1.226,79 | 31,96 | 33,78 |
|
4 | EVNHANOI | 2.088 | 33.350 | 17.879.217 | 536,11 | 0,35 | 0,16 |
|
5 | EVNHCMC | 14.082 | 353.864 | 272.841.243 | 771,03 | 3,69 | 2,45 |
|
Nguồn: Báo cáo của EVN tháng 1/2024.
Các hệ thống ĐMTMN trên đều được lắp đặt, nghiệm thu và ký hợp đồng mua bán điện với EVN/đại diện của EVN trước thời điểm FIT 2 hết hiệu lực (ngày 31/12/2020).
Còn sản lượng điện EVN mua từ hệ thống ĐMTMN năm 2023 như sau:
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của EVN tháng 1 năm 2024. |
Mặc dù cơ chế mới cho điện mặt trời vẫn chưa được cấp có thẩm quyền ban hành, nhưng từ năm 2021 đến nay vẫn có nhiều hệ thống ĐMTMN được lắp đặt sử dụng theo tiêu chí “tự sản, tự tiêu”. Theo thống kê sơ bộ: Tính đến tháng 7 năm 2023 có khoảng 1.030 hệ thống ĐMTMN với tổng công suất khoảng 399,96 MWp đã được các tổ chức, cá nhân lắp đặt (chủ yếu là các công ty TNHH, khu công nghiệp) với mục đích tự dùng tại chỗ. Các hệ thống ĐMTMN trên có liên kết với lưới điện, nhưng không bán điện cho các đơn vị của EVN (các hệ thống này sử dụng thiết bị chống phát ngược - Zero Export). Các hệ thống lớn cơ bản được thống kê như sau:
Thống kê các hệ thống ĐMTMN lắp đặt sau năm 2020:
TT | Tỉnh/Thành phố | Số lượng hệ thống | Tổng Công suất lắp đặt (kWp) | Ghi chú |
| Ở Miền Nam |
| ||
1 | Hồ Chí Minh | 429 | 27.610,00 | 80% số hệ thống lắp đặt tại hộ gia đình |
2 | Gia Lai | 14 | 1.564,34 | Chủ yếu là công ty thương mại |
3 | Cà Mau | 6 | 818,85 | Công ty, phòng CA tỉnh, chùa Phật Quang |
4 | Sóc Trăng | 11 | 1.198,41 | Chủ yếu Công ty, nhà hàng |
5 | Đồng Tháp | 3 | 2.390,24 | Các Công ty TNHH |
6 | Cần Thơ | 11 | 11.571,10 | Các Công ty TNHH |
7 | Quảng Ngãi | 7 | 3.459,64 | Cty Cp, Khách sạn |
8 | Long An | 2 | 27.100,00 | Công ty TNHH |
9 | Bến Tre | 4 | 5.212,00 | Cty CP, Công ty TNHH |
10 | Đã Nẵng | 32 | 15.350,84 | Các Công ty TNHH, dịch vụ |
11 | Khánh Hòa | 45 | 3.155,64 | 5 Cty TNHH =2.846 kWp+ nhà dân |
12 | Ninh Thuận | 7 | 1.607,42 | Các Cty TNHH, 4 nhà dân (186kWp) |
13 | Bạc Liêu | 2 | 1.039,12 | Cty TNHH, nhà dân 3,12kWp |
14 | Bình Phước | 4 | 4.030,67 | Công ty NNHH, 2 nhà dân= 17,67 kWp |
15 | Bà Rịa- Vũng Tầu | 42 | 520,08 |
|
| Ở Miền Bắc |
| ||
1 | Hà Nội | 80 | 32.018,00 | Chủ yếu là tại nhà xưởng khu công nghiệp |
2 | Thái Bình | 14 | 15.836,23 | Của Công ty, 1 của Bệnh viên (29,93kWp) |
3 | Bắc Ninh | 14 | 12.821,84 | Các Công ty TNHH |
4 | Vĩnh Phúc | 114 | 16.218,67 | Công ty HonDa và Toyota hơn 6.000 kWp, một số công ty CP trong KCN |
5 | Hà Nam | 11 | 23.037,00 | Các Cty TNHH trong khu CN |
6 | Ninh Bình | 1 | 3.800,00 |
|
7 | Nam Định | 23 | 2.781,81 | 5 nối trung áp 18 nối hạ áp, thiếu hồ sơ pháp lý |
8 | Hải Dương | 16 | 18.179,00 | Các Cty TNHH, sân gôn… |
9 | Nghệ An | 19 | 19.199,46 | Các Cty TNHH, Cty Cổ phần |
10 | Phú Thọ | 1 | 1.144,00 | Lắp đặt trên mái TT thương mại Big C |
11 | Hà Tĩnh | 16 | 9.700,20 |
|
12 | Hải phòng | 1 | 2.151,68 | Khu CN Đình Vũ tự sản tự tiêu |
17 | 637,48 |
| ||
3 | 15.268,00 | VSIP; Nomura; Đình Vũ |
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các Sở Công Thương năm 2023.
Để đạt được các kết quả như trên, về mặt chủ trương, chính sách, trước đó Chính phủ đã đặt ra mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo trong các tài liệu:
- Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo (NLTT) của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
- Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị.
- Quy hoạch điện VIII.
Đồng thời, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích khác nhau cho các loại hình điện NLTT được đánh giá có tiềm năng lớn. Về điện mặt trời, cơ chế khuyến khích được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Áp dụng biểu giá mua điện (FIT 1) đến hết ngày 30/6/2019:
- Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam.
- Quyết định số 02/2019/QĐ-TTg ngày 8/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg.
- Thông tư số 16/2017/TT-BCT ngày 12/9/2017 của Bộ Công Thương quy định về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời.
- Thông tư số 05/2019/TT-BCT ngày 11/3/2019 của Bộ Công Thương sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 16/2017/TT-BCT.
Giai đoạn 2: Áp dụng biểu giá mua điện (FIT 2) đến ngày 31/12/2020:
- Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 6/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam.
- Thông tư số 18/2020/TT-BCT ngày 17/7/2020 của Bộ Công Thương quy định về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho dự án điện mặt trời.
- Công văn số 7088/BCT-ĐL ngày 22/9/2020 của Bộ Công Thương về việc hướng dẫn thực hiện phát triển ĐMTMN.
2. Nhận xét, đánh giá:
Thứ nhất: Các chủ đầu tư phát triển ĐMTMN chủ yếu lắp đặt trên mái nhà trang trại chăn nuôi, trồng trọt (chiếm 59,73% công suất đặt). Tiếp theo đến lắp đặt trên mái nhà kho, nhà xưởng khu công nghiệp (chiếm 23,19%). Còn lại lắp đặt trên mái nhà ở riêng lẻ, công trình dân dụng như: Văn phòng công ty, đơn vị hành chính sự nghiệp, trung tâm thương mại dịch vụ, cơ sở tôn giáo, bệnh viện, trường học, công trình hạ tầng kỹ thuật (chỉ chiếm 17,07%).
Thứ hai: Tổng công suất đặt của các hệ thống ĐMTMN trong cả nước lớn hơn 500 kWp chiếm tỷ lệ khoảng 76% (chủ yếu tập trung ở miền Nam và miền Trung), trong khi đó đối với các hệ thống < 50 kWp (chiếm 10,96%).
Thứ ba: Về đấu nối - các hệ thống ĐMTMN công suất đặt lớn đấu nối chủ yếu vào lưới điện trung áp (chiếm 83,15% về công suất), nối hạ áp (chiếm 16,85% về công suất).
Thứ tư: Về phân bố công suất đặt theo khu vực - các hệ thống ĐMTMN đều tập trung ở tại các khu vực miền Nam (57,94%) và miền Trung (31,96%), Thành phố Hồ Chí Minh (3,69%). Còn tỷ lệ công suất lắp đặt ĐMTMN tại miền Bắc chỉ đạt 6,07%, Hà Nội đạt 0,35%.
Thứ năm: Về tỷ lệ bán điện lên lưới hệ thống điện quốc gia cho EVN - các hệ thống ĐMTMN do các Tổng công ty Điện lực miền Nam, miền Trung quản lý đều cơ bản bán điện lên hệ thống điện quốc gia tương ứng với tỷ lệ 59% (tại miền Nam) và 33,78% (tại miền Trung).
3. Những lợi ích thiết thực do điện mặt trời mái nhà đem lại:
Bao gồm lợi ích cho người dân (chủ đầu tư) và cho cả hệ thống điện quốc gia vốn đang trong tình trạng khan hiếm nguồn cung cấp do nhiều nguồn điện dự kiến xây mới không được ủng hộ của công chúng nên chưa khởi công và nhiều nguồn đang xây dựng, nhưng chậm tiến độ theo quy hoạch.
3.1. Lợi ích cho người dân:
- Giảm chi phí tiền điện hàng tháng do điện được sản xuất và sử dụng trực tiếp vào giờ cao điểm buổi trưa, hoặc giảm giá mua điện bậc cao (giá của bậc 5, 6).
- Tăng thu nhập nhờ bán lại phần sản lượng điện dư, không sử dụng cho EVN với giá 8,38 Uscent quy đổi sang VNĐ (áp dụng đối với các dự án ĐMTMN có thời gian nghiệm thu đưa vào vận hành và phát điện từ 1/7/2019 đến 31/12/2020). Hợp đồng mua bán ĐMTMN được ký với đơn vị điện lực được EVN ủy quyền trong 20 năm (kể từ ngày vận hành phát điện), tỷ giá đô la quy đổi được lấy theo số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố ngày cuối cùng của năm trước để tính cho năm tiếp theo.
- Không tốn diện tích đất khi lắp đặt (ĐMTMN chiếm 5-6 m2 mái/1kWp, trong khi điện mặt trời trên mặt đất chiếm khoảng 11-13 m2 mặt đất /1kWp).
- Chống nóng hiệu quả cho công trình.
3.2. Lợi ích cho đất nước và hệ thống điện quốc gia:
- Tận dụng tối đa tài nguyên bức xạ mặt trời, với quy mô phân tán, trực tiếp tại hộ tiêu thụ nên giảm bớt được phụ tải đỉnh của hệ thống điện tại các giờ cao điểm buổi trưa, do đó giảm áp lực huy động nguồn cung cấp cho hệ thống điện vào giờ cao điểm này. Mặt khác, phát huy hết hiệu suất của nguồn phát vào giờ thấp điểm, giảm áp lực cho cơ quan điều độ hệ thống điện, tăng khả năng thu hồi vốn đầu tư, đảm bảo an sinh xã hội.
- Giảm quá tải cho đường dây truyền tải trong giờ cao điểm buổi trưa, giảm bớt áp lực đầu tư nâng cấp đường dây truyền tải.
- Góp phần bảo vệ môi trường.
- Giảm áp lực trong quy hoạch sử dụng đất tại các địa phương.
II. Các khó khăn, vướng mắc:
1. Cơ chế giá:
Như đã trình bày, công suất lắp đặt ĐMTMN miền Bắc chỉ chiếm 6,42%. Nguyên nhân chính do cường độ mặt trời tại miền Trung và miền Nam lớn hơn miền Bắc (từ 1,5 đến 1,7 lần), nên mặc dù giá điện Fit 2 là 8,38 Uscent/kWh có lợi nhuận tốt đối với các chủ đầu tư khu vực miền Trung và Nam, nhưng việc thu hồi vốn đầu tư đối với khu vực miền Bắc là khó khăn, nên các chủ đầu tư cũng không mặn mà cho việc lắp đặt.
Hiện nay, Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 6/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam đã hết hiệu lực từ ngày 31/12/2020. Trong khi đó, ĐMTMN là nguồn điện sạch, tái tạo có tính chất phân tán, quy mô nhỏ, được tiêu thụ tại chỗ, giảm tổn thất của quá trình truyền tải, phân phối, tận dụng hạ tầng lưới điện hiện có của ngành điện, có thời gian phát chủ yếu vào ban ngày, trong giờ cao điểm của hệ thống điện giúp giảm đỉnh phụ tải. Hiện tại, Chính phủ chưa ban hành cơ chế cơ chế khuyến khích phát triển các nguồn ĐMTMN với mục đích tự tiêu thụ cho nhu cầu phụ tải tại chỗ (có thể bán phần nhỏ dư thừa lên lưới) để đáp ứng mục tiêu phấn đấu có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng ĐMTMN tự sản, tự tiêu đã được phê duyệt trong Quy hoạch điện VIII.
2. Các quy định, trình tự, thủ tục:
Hiện nay, trong quá trình triển khai thực hiện các quy định, trình tự, thủ tục theo hướng dẫn tại Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg và Thông tư số 18/2020/TT-BCT, chúng tôi nhận thấy cần có hướng dẫn bổ sung để phù hợp với tình hình mới như sau:
- Trong thời gian Chính phủ chưa ban hành cơ chế phát triển ĐMTMN mới, ngành điện chưa thực hiện thỏa thuận đấu nối các hệ thống ĐMTMN mới lắp đặt vào lưới điện. Do đó, hiện chưa có biện pháp và chế tài xử lý các trường hợp người dân đầu tư lắp đặt hệ thống ĐMTMN đấu nối với lưới điện, tự ý thay đổi công suất hệ thống mà không thông báo ngành điện, hoặc tự ý thay đổi công suất dự án.
- Chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho các phần tử cấu thành nên hệ thống ĐMTMN (tấm pin, inverter, ắc quy...) dẫn đến chất lượng các hệ thống ĐMTMN chưa được kiểm soát một cách chặt chẽ, tiềm ẩn các nguy cơ về an toàn điện, an toàn PCCC, độ ổn định về chất lượng điện năng...
- Chưa có quy định, hướng dẫn về việc lắp đặt hệ thống ĐMTMN với chế độ Zero export.
- Chưa ban hành Tiêu chí kỹ thuật để nghiệm thu nguồn ĐMTMN, Quy trình kiểm tra bảo dưỡng, thử nghiệm định kỳ... để làm cơ sở áp dụng thống nhất, đồng bộ, đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu quả trong việc phát triển ĐMTMN.
- Chưa có hướng dẫn, quy trình thu hồi các tấm pin năng lượng mặt trời, inverter, ắc quy lưu trữ đã qua sử dụng để đảm môi trường trong thời gian tới.
- Chưa có nghiên cứu, hoặc báo cáo chuyên sâu về ảnh hưởng của ĐMTMN đối với việc vận hành hệ thống lưới điện trung và hạ áp (chất lượng điện năng (sóng hài, quá điện áp, độ dao động điện áp, tổn hao...), tỷ lệ tối ưu giữa điện lưới và ĐMTMN trong một phát tuyến trung và hạ áp.
- Đối với các hệ thống ĐMTMN đã phát triển trong thời gian qua, đơn vị điện lực thay mặt EVN quản lý chủ đầu tư chủ yếu thông qua hợp đồng mua bán điện (trên cơ sở hợp đồng mẫu do Bộ Công Thương ban hành). Đối với các hoạt động quản lý nhà nước chuyên ngành (sử dụng đất đai, an toàn công trình xây dựng, phòng chống cháy nổ, hoạt động kinh tế trang trại, đăng ký kinh doanh), các công ty điện lực không có thẩm quyền, chức năng, chuyên môn để đánh giá và kiểm tra việc tuân thủ, chấp hành quy định của các chủ đầu tư. Bên cạnh đó, chủ đầu tư cũng không cung cấp thông tin đầy đủ nên công ty điện lực rất khó khăn trong việc phối hợp quản lý với các cơ quan chức năng.
- Việc bổ sung các hồ sơ liên quan về các hoạt động quản lý nhà nước chuyên ngành (sử dụng đất đai, an toàn công trình xây dựng, phòng chống cháy nổ, hoạt động kinh tế trang trại, đăng ký kinh doanh) của chủ đầu tư còn gặp nhiều khó khăn do chưa có hướng dẫn từ các sở, ban, ngành liên quan, hoặc chưa có sự thống nhất giữa các địa phương.
- Cần phải có quy định về tiêu chí lắp đặt, quy mô công suất lắp đặt phù hợp với việc sử dụng của từng nhóm đối tượng (có thể chia ra nhiều nhóm). Thời gian vừa qua có hiện tượng ồ ạt lắp đặt điện mặt trời mái nhà, khiến bị đội giá thành, chất lượng công trình chưa đảm bảo và cần phải định nghĩa rõ hơn về “tự dùng”.
Theo thống kê của EVN, tại thời điểm tháng 8/2023, số hệ thống ĐMTMN còn vướng mắc các thủ tục như sau:
- Về an toàn phòng cháy chữa cháy (1.313 hệ thống).
- Về an toàn công trình xây dựng (629 hệ thống).
- Về an toàn môi trường (162 hệ thống).
- Về đăng ký kinh doanh (774 hệ thống).
III. Đề xuất giải pháp và kiến nghị:
Việc tiếp tục lắp đặt ĐMTMN cần phải có cơ chế rõ ràng, để phát triển đồng đều giữa các vùng miền, tránh phát triển ồ ạt, cũng như đảm bảo khuyến khích các hộ dùng điện tự dùng và phải phù hợp với Quy hoạch điện VIII.
Căn cứ vào các số liệu phân tích nêu trên, chúng tôi xin đề xuất Chính phủ xem xét, nghiên cứu chỉ đạo thực hiện một số nội dung sau:
1. Chính phủ giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành liên quan sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho các phần tử cấu thành nên hệ thống ĐMTMN (tấm pin, inverter, ắc quy, bộ chống phát ngược Zero export...); tiêu chí kỹ thuật để nghiệm thu nguồn ĐMTMN, quy trình kiểm tra bảo dưỡng, thử nghiệm định kỳ, để có thể kiểm soát một cách chặt chẽ, chất lượng thiết bị lưu thông và lắp đặt, giúp thuận lợi trong quá trình kiểm tra, nghiệm thu đưa hệ thống vào vận hành.
2. Xây dựng hướng dẫn, quy trình thu hồi các tấm pin năng lượng mặt trời, inverter, ắc quy lưu trữ đã qua sử dụng để đảm môi trường trong thời gian tới.
3. Tổ chức, giao nhiệm vụ nghiên cứu/báo cáo chuyên sâu về ảnh hưởng của ĐMTMN đối với việc vận hành hệ thống lưới điện trung và hạ áp (chất lượng điện năng, sóng hài, quá điện áp, độ dao động điện áp, tổn hao...), tỷ lệ tối ưu giữa điện lưới và ĐMTMN trong một phát tuyến trung, hạ áp...
4. Rà soát các hoạt động quản lý nhà nước chuyên ngành (sử dụng đất đai, an toàn công trình xây dựng, phòng chống cháy nổ, hoạt động kinh tế trang trại, đăng ký kinh doanh…), cần có hướng dẫn từ các bộ, sở, ban ngành liên quan và địa phương để có sự thống nhất trong cả nước để chủ đầu tư thuận lợi trong việc bổ sung các hồ sơ liên quan.
5. Cần phải có quy định về tiêu chí lắp đặt, quy mô công suất lắp đặt phù hợp với việc sử dụng của từng nhóm đối tượng (có thể chia ra nhiều nhóm). Thời gian vừa qua có hiện tượng ồ ạt lắp đặt ĐMTMN, khiến bị đội giá thành, chất lượng công trình chưa đảm bảo.
6. Xem xét ưu tiên phần lớn phần công suất lắp đặt ĐMTMN nối lưới còn lại đến năm 2030 (2.200 MW) cho các tỉnh miền Bắc, trong đó tính toán chia cho các tỉnh. Hàng năm tiến hành đánh giá việc lắp đặt ĐMTMN và có thể điều chỉnh lại cho phù hợp.
7. Hỗ trợ tính toán phần công suất lắp đặt tối thiểu cho các hộ gia đình có đủ điều kiện lắp đặt (mức độ dùng điện, thời điểm dùng điện, điều kiện mặt bằng…) để phê duyệt phương án, hạn chế tối đa mức độ lãng phí do không được bán phần điện dư lên lưới.
8. Xem xét có cơ chế hỗ trợ giá đối với vùng sâu, vùng xa dùng ĐMTMN (trợ giá tiền/kWp lắp đặt).
9. Do đặc điểm ở miền Bắc khí hậu chia 4 mùa, lượng bức xạ mặt trời các tháng có sự chênh lệch khá lớn nên rất khó khăn cho việc tính toán công suất ĐMTMN nối lưới tự dùng. Ở mức độ tính toán trung hòa, thì có nhiều ngày có thể thừa lượng điện sinh ra, vì thế đề nghị nghiên cứu có cơ chế để EVN mua lại một phần lượng điện dư (nên quy định lượng điện dư tối đa chiếm bao nhiêu % sản lượng điện sinh ra từ hệ thống ĐMTMN). Còn giá mua điện, nên quy định mức tối thiểu để chủ đầu tư không thể lợi dụng chính sách và không lãng phí sản lượng điện đã sinh ra từ hệ thống điện mặt trời mái nhà./.
LÃ HỒNG KỲ - CHUYÊN GIA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM