Nhật ký Năng lượng: Năng lượng tái tạo và tiếng gọi của lương tri
08:26 | 07/06/2013
Nhật ký Năng lượng: 'An toàn hệ thống điện' và 'ý tưởng siêu dự án'
Bình luận tuần thứ hai:
NGUYỄN HOÀNG LINH
Đầu năm 2013, tỉnh Thừa Thiên Huế đã khởi công Tổ hợp pin mặt trời 300 triệu USD Dự án Tổ hợp Nhà máy pin mặt trời do Công ty CP Đầu tư chuyển giao Worldtech làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư là 300 triệu USD (tương đương 6.247,5 tỷ đồng), diện tích thuê đất 15 ha. Đây là dự án đầu tiên của tỉnh có sự hợp tác của nhà đầu tư đến từ Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất và cũng là dấu mốc quan trọng mới, thể hiện sự quan tâm của Việt Nam đối với sự nghiệp phát triển NLTT.
Thế kỷ 20 là thế kỷ của cuộc cách mạng công nghiệp tiêu tốn một khối lượng năng lượng hóa thạch khổng lồ và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo của nhân loại, làm mất cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, gây ra hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên, gây ra biến đổi khí hậu và các thảm họa từ thiên nhiên. Chính vì vậy, nhân loại thấy được cần phải có một cuộc cách mạng thay đổi về tư duy và nhận thức trong phát triển để bảo vệ trái đất, chính là bảo vệ môi trường sống của nhân loại và để tồn tại, phát triển trong khi những nguồn năng lượng hóa thạch sẽ cạn kiệt trong thời gian không xa vào giữa và cuối thế kỷ 21 này, cuộc cách mạng tất yếu đó là cuộc cách mạng về năng lượng tái tạo, nhiên liệu mới, tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Tiếng gọi của lương tri thì gióng lên như vậy, nhưng con đường phát triển NLTT tại Việt Nam còn nhiều gập gềnh, gấp khúc.
Việt Nam có vị trí địa lý nằm ở trung tâm của Đông Nam châu Á, với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế tại Biển Đông hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền và là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng, gió, mưa rất nhiều, có điều kiện tự nhiên đặc biệt tốt để phát triển về năng lượng tái tạo.
Theo đánh giá của các tổ chức năng lượng quốc tế và ngân hàng thế giới [*] nước ta có tiềm năng to lớn về năng lượng tái tạo, năng lượng gió với công suất dự báo hơn 513.000 MW, đứng đầu Đông Nam Á, với tốc độ gió tốt từ 6m/s trở lên. Một thuận lợi nữa, Việt Nam có vị trí địa lý nằm ở trung tâm của Đông Nam châu Á, với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế tại Biển Đông hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền và là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng, gió, mưa rất nhiều, có điều kiện tự nhiên đặc biệt tốt để phát triển về năng lượng tái tạo.
Với tiềm năng to lớn như vậy, việc phát triển các công viên khoa học công nghệ cao và kết nối với các công viên khoa học trong khu vực châu Á và trên thế giới là rất cần thiết, để phục vụ cho việc nghiên cứu, sáng tạo, phát triển, chuyển giao công nghệ cho việc xây dựng nền móng và nội địa hóa cho ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, nhiên liệu mới phục vụ cho tăng trưởng và phát triển đất nước của Việt Nam với dân số gần 100 triệu người vào năm 2015 và gần 600 triệu người của cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN sẽ hình thành một thị trường chung có GDP hơn 2.000 tỷ đô la đã đến rất gần.
Với những bài học thành công của các nước phát triển đi trước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore… thì đây chính là một cơ hội và thời cơ tốt nhất cho tất cả các nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng hợp tác đầu tư nghiên cứu phát triển sáng tạo, phục vụ cho thị trường to lớn đang tăng trưởng cao của các nước Đông Nam Á, đang hướng tới một nền kinh tế tăng trưởng xanh, bền vững và bảo vệ môi trường xanh, sạch đẹp để phát triển kinh tế, du lịch với những nền văn hóa phong phú đậm đà bản sắc Á Đông là điểm đến thân thiện, với thiên nhiên tuyệt đẹp và khí hậu ấm áp quanh năm là thiên đường nghỉ dưỡng, và khám phá về văn hóa, lịch sử, ẩm thực của thế giới đặc biệt trong những mùa đông băng giá của châu Âu và bắc Mỹ.
Tiềm năng thì mầu hồng nhưng thực tiễn phát triển NLTT lại khá nhợt nhạt. Trong bài Hiện trạng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam, TS. Nguyễn Anh Tuấn (Viện Năng lượng) cho biết, tính đến hết 2010, NLTT chiếm khoảng 3,5% tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện, tuy nhiên, theo đánh của các chuyên gia thì rất nhiều các nhà máy thuỷ điện nhỏ và cực nhỏ là không hoạt động, còn các nhà máy điện sinh khối hoạt động cầm chừng hoặc theo thời vụ. Không kể thủy điện nhỏ thì năm 2010 công suất lắp đặt của điện NLTT là khoảng 790MW, chủ yếu là từ sinh khối, gió và mặt trời. Tốc độ tăng trưởng trong ngành điện sinh khối làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nguồn. Tổng công suất lắp đặt của điện sinh khối là 150 MW, và hiện đã có một số nhà máy bán điện lên lưới và có kế hoạch mở rộng (xem bảng 1).
Bảng 1: Công suất lắp đặt các nhà máy điện năng lượng tái tạo tính đến hết năm 2010 (MW)
Thuỷ điện vừa và nhỏ | Năng lượng sinh khối | Khí sinh học | Điện mặt trời | Điện gió |
600 | 150 | 0,5 | 2 | 37,5 |
Ông cho rằng rào cản chính cho phát triển NLTT là chi phí sản xuất. Nhiều công nghệ mới của NLTT - gồm gió, mặt trời và nhiên liệu sinh học đã và sẽ sớm có tính cạnh tranh kinh tế với các nhiên liệu hóa thạch và có thể đáp ứng một phần nhu cầu năng lượng của Việt Nam. Các công nghệ có chi phí tương đối cạnh tranh là thủy điện, gió, sinh khối và địa nhiệt. Mặc dù pin mặt trời có chi phí cao nhưng chi phí này giảm đều đặn do tiến bộ trong công nghệ. Tại Việt Nam, qua các nghiên cứu trong dự án Tổng sơ đồ phát triển NLTT của Viện Năng Lượng, chi phí cho sản xuất điện từ NLTT như sau (xem bảng 2).
Bảng 2: Chi phí cho sản xuất điện từ năng lượng tái tạo
Giá thành | Thuỷ điện nhỏ | Gió | Trâu | Bã mía | Khí từ rác thải | Đốt rác thải | Pin mặt trời | Địa nhiệt |
VNĐ/kWh | 300-1.000 | 1.200-1.800 | 900-1.600 | 700-1.200 | 700-800 | 1.600-1.800 | 3.600-6.000 | 1.100-1.600 |
Ngoài yếu tố giá thành sản xuất cao, một số rào cản khác đối với sự phát triển NLTT có thể kể đến như: thiếu các chính sách và tổ chức hỗ trợ cho phát triển NLTT; thiếu thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quy hoạch và hoạch định chính sách; công nghệ và dịch vụ phụ trợ cho NLTT chưa phát triển; khó tiếp cận nguồn vốn để phát triển các dự án NLTT.
Vậy làm thế nào để khắc phục được những rào cản này?
TS. Nguyễn Anh Tuấn đã đề xuất Việt Nam cần có các chính sách hỗ trợ như cơ chế hạn ngạch, cơ chế giá cố định, cơ chế đấu thầu và cơ chế cấp chứng chỉ.
Cơ chế hạn ngạch (định mức chỉ tiêu): Chính phủ qui định bắt buộc các đơn vị sản xuất (hoặc tiêu thụ) phải đảm bảo một phần lượng điện sản xuất/tiêu thụ từ nguồn NLTT, nếu không sẽ phải chịu phạt theo định mức đặt ra theo tỷ lệ.
Cơ chế này có ưu điểm là sẽ tạo ra một thị trường cạnh tranh giữa các công nghệ NLTT, nhờ đó làm giảm giá thành sản xuất NLTT. Cơ chế này giúp Chính phủ chỉ qui định hạn ngạch nhằm đạt mục tiêu định ra cho NLTT, còn giá thành sẽ do thị trường cạnh tranh tự quyết định. Giá phạt được tính toán và đưa ra như giới hạn trần cho tổng chi phí ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Nhược điểm của cơ chế này là đơn vị sản xuất sẽ phải chịu những rủi ro và chi phí lớn ngoài khả năng kiểm soát. Hơn nữa, cơ chế này sẽ ưu tiên phát triển các công nghệ chi phí thấp nhất, do đó sẽ không thúc đẩy phát triển các dạng công nghệ kém cạnh tranh hơn.
Cơ chế giá cố định: Chính phủ định mức giá cho mỗi kWh sản xuất ra từ NLTT, định mức giá có thể khác nhau cho từng công nghệ NLTT khác nhau. Thông thường là định mức giá này cao hơn giá điện sản xuất từ các dạng NL hoá thạch, do đó sẽ khuyến khích và đảm bảo lợi ích kinh tế cho NLTT. Chính phủ tài trợ cho cơ chế giá cố định từ nguồn vốn Nhà nước hoặc buộc các đơn vị sản xuất, truyền tải phải mua hết điện từ nguồn NLTT. Cơ chế này giảm thiểu những rủi ro cho các nhà đầu tư vào NLTT. Với giá cố định đặt ra khác nhau cho các dạng NLTT, Chính phủ có thể khuyến khích đầu tư vào các công nghệ NLTT cần phát triển với các mục tiêu khác nhau.
Tuy nhiên, cơ chế này có hạn chế là với giá cố định cho một thời gian dài sẽ khó kiểm soát được lợi nhuận của các nhà đầu tư. Giảm dần giá cố định có thể được áp dụng, tuy nhiên cần phải được công bố rõ ràng để giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Áp dụng cơ chế này, Chính phủ không thể biết trước sẽ có bao nhiêu dự án NLTT được đầu tư, do đó không biết trước được tổng chi phí cho cơ chế này trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Một hạn chế nữa là tăng chi phí cho việc điều độ và nảy sinh các vấn đề kỹ thuật cho hệ thống điện do các nhà quản lý lưới buộc phải tiếp nhận nguồn điện NLTT.
Cơ chế đấu thầu: Chính phủ sẽ đề ra các tiêu chí đấu thầu cạnh tranh, có thể riêng cho từng loại công nghệ NLTT. Danh sách các dự án NLTT sẽ được lựa chọn từ thấp đến cao cho đến khi thoả mãn mục tiêu phát triển đặt ra cho từng loại NLTT và được công bố. Sau đó, Chính phủ, hoặc cơ quan quản lý được uỷ quyền sẽ buộc các đơn vị sản xuất điện bao tiêu sản lượng từ các dự án trúng thầu (có hỗ trợ bù giá). Ưu thế của cơ chế này là sự cạnh tranh làm giảm chi phí bù giá tối thiểu. Chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát số lượng dự án được lựa chọn, có nghĩa là kiểm soát được chi phí bù lỗ.
Ngoài ra, việc cố định giá cho các dự án trúng thầu cũng là một đảm bảo cho nhà đầu tư lâu dài. Song cơ chế này cũng bộc lộ một số nhược điểm là khi trúng thầu, nhà đầu tư có thể sẽ trì hoãn việc triển khai dự án do nhiều lý do: chờ đợi thời cơ để giảm giá thành đầu tư, chấp nhận đấu thầu lỗ chỉ nhằm mục đích găm dự án không cho đơn vị khác cạnh tranh và sẽ không triển khai các dự án lỗ… Chính phủ có thể đưa ra các chế tài xử phạt để hạn chế các nhược điểm này.
Cơ chế cấp chứng chỉ: Với cơ chế này có thể là chứng chỉ sản xuất, hoặc chứng chỉ đầu tư, hoạt động theo nguyên tắc cho phép các đơn vị đầu tư vào NLTT được miễn thuế sản xuất cho mỗi kWh, hoặc khấu trừ vào các dự án đầu tư khác. Cơ chế này có ưu điểm là đảm bảo sự ổn định cao, đặc biệt khi cơ chế này được dùng kết hợp với các cơ chế khác để tăng hiệu quả. Tuy nhiên, sự ổn định này phải được nghi rõ trên văn bản về thời hạn cấp chứng chỉ. Hạn chế nữa là cơ chế này thiên về ủng hộ các đơn vị lớn, có tiềm năng và nhiều dự án đầu tư để dễ dàng khấu trừ thuế vào đó.
Hiện tại, Việt Nam chưa có cơ chế hỗ trợ phát triển NLTT một cách tổng thể, ngoài cơ chế hỗ trợ giá riêng cho cho điện gió được thông qua năm 2011. Trong một số dự án nghiên cứu do Viện Năng lượng tiến hành trong thời gian qua, một số cơ chế khác như cơ chế đấu thầu hoặc cơ chế hạn ngạch cũng đã cho thấy có khả năng thích hợp, cùng với việc đề xuất một số thể chế nhằm thúc đẩy sự phát triển NLTT.
Ngoài ra, để hỗ trợ các dự án NLTT nhỏ và độc lập (không nối lưới), các nghiên cứu trên cũng cho thấy một “cơ chế cấp tín dụng trực tiếp cho người tiêu dùng” là thích hợp trong điều kiện của Việt Nam.Tuy nhiên, việc áp dụng bất cứ cơ chế nào cũng nên áp dụng bổ sung các chế tài hoặc các cơ chế hỗ trợ khác để phát huy hiệu quả tối đa sự hỗ trợ phát triển NLTT...
Nếu "quy đồng mẫu số" của các đề xuất trên đây thì dễ dàng thấy rằng, chúng đều bắt đầu từ các "cơ chế" và quyền lực này đều nằm trong tay các cơ quan công quyền.
Ở các nước phát triển trên thế giới, để chủ động phát triển NLTT, Chính phủ đã phải ra tay quyết liệt. Bộ trưởng Bộ Nội vụ của Mỹ, ông Ken Salarza vừa có cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo hàng đầu trong ngành năng lượng gió ngoài khơi tại Boston, Mỹ. Trong bài phát biểu về việc Mỹ và những bước tiến mới về năng lượng tái tạo, ông cho biết: “Chương trình năng lượng tái tạo của chính quyền Tổng thống Obama đã cấp phép cho hàng chục các dự án xây dựng trên đất công và sẽ tổ chức các phiên đấu giá chưa từng có trong lịch sử ngành thương mại năng lượng gió của vùng Đại Tây Dương trong năm nay". Trong những năm qua, Bộ Nội vụ Mỹ đã làm việc với các đối tác của địa phương, các tiểu bang trong ngành để phê chuẩn 34 dự án xây dựng trên đất công ích của các bang miền Tây nước Mỹ, cũng như xây dựng một bộ khung pháp lý cho vùng ngoài khơi biển Đại Tây Dương. Các nhà máy được Bộ Nội vụ cấp phép bao gồm: 18 nhà máy năng lượng mặt trời, 7 trang trại gió và 9 nhà máy điện nhiệt khi hoạt động đã cung cấp 10.400MW điện cho 3,4 triệu hộ dân. Ước tính các dự án này khi được xây dựng và đi vào vận hành sẽ tạo ra khoảng 13.000 việc làm cho nhân công.
Khi nói đến Năng lượng tái tạo: Thách thức mới của Indonesia, TTXVN mới đây dẫn lời của Chủ tịch Cơ quan đặc trách Chính phủ Indonesia quản lý hoạt động trong lĩnh vực dầu khí SKKMigas, cựu Thứ trưởng Bộ Năng lượng và Khoáng sản nước này, ông Rubi Rubiandini cho biết: Việc khai thác, phát huy tiềm năng năng lượng tái tạo để cắt giảm tiêu thụ và nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch đang là một thách thức lớn đối với quốc gia lớn nhất Đông Nam Á này.
Trả lời phỏng vấn giới truyền thông về các vấn đề liên quan đến việc Indonesia tiếp tục thâm hụt thương mại trong các tháng đầu năm 2013, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do nhập khẩu dầu mỏ và khí đốt gia tăng. Ông Rubiandini thừa nhận rằng, mặc dù là đất nước quần đảo, nằm trải dài và rộng trên một vùng biển lớn, giàu tiềm năng năng lượng mặt trời, gió, sóng biển, địa nhiệt, sinh khối, thủy điện, và nền kinh tế liên tục tăng trưởng nhanh trên 6% trong những năm qua, song tỷ trọng năng lượng tái tạo mới chỉ chiếm 5% trong tổng sản lượng điện năng của Indonesia.
Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu vốn đầu tư, chi phí cao trong sản xuất điện từ các nguồn năng lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng còn yếu kém và chưa đủ để có thể hỗ trợ phát triển các nguồn lực cho việc khai thác, phát huy tiềm năng năng lượng tái tạo và giảm giá thành sản xuất để nâng cao tính cạnh tranh, cùng với những khó khăn về mặt địa lý trong việc kết nối giữa sản xuất với các trung tâm thị trường tiêu thụ đối với một đảo quốc gồm trên 17.000 hòn đảo...
Qua tổng hợp của "Nhật ký Năng lượng" (kỳ 2) đã cho chúng ta thấy một bức tranh khá toàn diện về phát triển NLTT Việt Nam và một số nước điển hình trên thế giới.
Câu chuyện chính sách phát triển NLTT không phải bây giờ mới đề cập, trước đây, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) đã nhiều lần kiến nghị tới Thủ tướng Chính phủ những vấn đề cấp bách cần phải thực thi trong chính sách NLTT của Việt Nam.
VEA cho rằng, tiềm năng kỹ thuật của thủy điện gần như đã hết, sau thủy điện Lai Châu chỉ còn lại tiềm năng các thủy điện nhỏ, bổ sung không đáng kể cho hệ thống nguồn điện Việt Nam. Vì vậy, chúng ta nên phát triển mạnh nguồn năng lượng tái tạo, tăng tỷ lệ nguồn năng lượng này lên mức 8% vào năm 2020 thay cho 5% trong QHĐ VII. Chúng có nhiều lợi thế về tiềm năng (gió, mặt trời, sinh khối) để thực hiện được mục tiêu đó. Do vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các nhà đầu tư (giảm giá thuê đất, thuế nhập khẩu các loại vật tư, thiết bị trong nước chưa sản xuất được, thuế VAT…), xây dựng khung giá năng lượng tái tạo hợp lý với các thành phần: mức giá tối đa EVN có thể mua, giá hỗ trợ của Nhà nước và giá bán phát thải khí nhà kính (CER) theo các chuyên ngành: gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt… đảm bảo có lợi nhuận cho các nhà đầu tư.
NangluongVietnam.vn
[*]
Năng lượng tái tạo: Tiềm năng và thực trạng phát triển của Việt Nam (Kỳ 1)
Năng lượng tái tạo: Tiềm năng và thực trạng phát triển của Việt Nam (Kỳ 2)