RSS Feed for Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 16) | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ năm 28/03/2024 19:29
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 16)

 - Các công trình thủy điện sau khi hoàn thành đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động tại Đắk Lắk đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu ngân sách cho các địa phương, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân. Đồng thời cũng góp phần cải tạo môi trường, góp phần chủ động bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống trong mùa khô ở vùng hạ lưu, khu vực xung quanh hồ chứa. Tuy nhiên, có một số dự án, công tác quy hoạch, đánh giá tác động môi trường trên thực tế chưa được thực hiện đầy đủ, do vậy, ở một số công trình, khi đưa vào khai thác vận hành đã gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và đời sống của nhân dân trong khu vực.

Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 1)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 2)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 3)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 4)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 5)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 6)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 7)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 8)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 9)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 10)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 11)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 12)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 13)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 14)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 15)

BÀI 16: Ý KIẾN CỦA NGƯỜI TRONG CUỘC (3)

Đắk Lắk là một tỉnh nằm ở trung tâm khu vực Tây Nguyên, diện tích tự nhiên 13.125,37km2. Cùng với địa hình đa dạng, đồi núi xen kẽ bình nguyên và thung lũng, Đắk Lắk có nhiều hệ thống sông suối phân bố đều trên địa bàn tỉnh, với hai hệ thống sông chính là Sông Sêrêpôk và Sông Ba... Với những đặc điểm thuận lợi về địa hình, hệ thống sông ngòi phân bố tương đối đều trên lãnh thổ cùng với hàng trăm hồ chứa và nhiều con suối đã tạo cho Đắk Lắk có một mạng lưới sông hồ khá dày đặc. Vì vậy, nhiều vùng trong tỉnh có khả năng khai thác nguồn nước mặt thuận lợi để phục vụ vào mục đích cấp nước phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, sản xuất và phát điện.

Thực trạng phát triển thủy điện vừa và nhỏ

Theo Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ tỉnh Đắk Lắk, toàn tỉnh có 22 công trình thủy điện và 79 điểm có tiềm năng phát triển thủy điện, với tổng công suất lắp đặt tương ứng là 190 MW.

Thực hiện chủ chương rà soát quy hoạch, đầu tư xây dựng và vận hành khai thác các công trình thủy điện của Chính phủ, Đắk Lắk đã loại bỏ khỏi Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ tỉnh Đắk Lắk 13/22 công trình và 71/79 điểm có tiềm năng thủy điện.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương, UBND tỉnh Đắk Lắk đã phê duyệt bổ sung 6 dự án thủy điện vào Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ của tỉnh. Như vậy, hiện nay số công trình và điểm có tiềm năng thủy điện trong Quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ tỉnh Đắk Lắk là 15 công trình thủy điện vừa và nhỏ và 8 điểm có tiềm năng phát triển thủy điện với tổng công suất lắp đặt tương ứng là 149 MW.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 23 công trình thủy điện đã được đầu tư xây dựng đưa vào vận hành phát điện, với tổng công suất 953,01 MW, tổng sản lượng điện sản xuất trong 1 năm theo thiết kế khoảng 3,8 tỷ kWh. Trong đó, có 7 công trình thủy điện công suất lắp máy ≥ 30MW, tổng công suất 824 MW, tổng sản lượng điện sản xuất trong 1 năm khoảng 3,4 tỷ kWh đấu nối vào hệ thống điện quốc gia và 16 công trình thủy điện nhỏ (công suất lắp máy từ 0,3 MW đến dưới 30MW), tổng công suất 129,01 MW đã đưa vào hoạt động.

Các công trình thủy điện sau khi hoàn thành đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu ngân sách cho các địa phương, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận nhân dân. Đồng thời cũng góp phần cải tạo môi trường, góp phần chủ động bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất và đời sống trong mùa khô ở vùng hạ lưu, khu vực xung quanh hồ chứa.

Đối với mỗi công trình thủy điện được quy hoạch, khi tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng đều thực hiện việc đánh giá tác động môi trường, nhưng công tác này trên thực tế chưa được thực hiện đầy đủ và còn mang tính chủ quan; chưa nghiên cứu toàn diện về tác động của hệ thống hồ chứa, kênh dẫn, diễn biến tình trạng hạn hán, các xung đột về sử dụng nước, các hiện tượng xảy ra do biến đổi khí hậu… Do đó, ở một số công trình, khi đưa vào khai thác vận hành đã gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân trong khu vực. 

Kiến nghị, đề xuất Bộ Công Thương

Thứ nhất: Báo cáo, kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định để thay thế Nghị định số 72/2007/NĐ-CP ngày 7 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ "về quản lý an toàn đập". Trên cơ sở đó, xây dựng ban hành Thông tư để thay thế cho Thông tư số 34/2010/TT-BCT ngày 7 tháng 10 năm 2010 của Bộ Công Thương "quy định về quản lý an toàn đập của công trình thủy điện".

Thứ hai: Sớm có quy định, hướng dẫn cụ thể về việc tính toán, xác lập các tình huống vỡ đập vào trong phương án phòng chống lũ lụt vùng hạ du đập.

Thứ ba: Báo cáo, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực Sông Srêpốk được ban hành kèm theo Quyết định 1201/QĐ-TTg ngày 23/7/2014 để phù hợp với tình hình thực tế.

Thứ tư: Xây dựng, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để áp dụng trong thiết kế, vận hành các công trình thủy điện.

Thứ năm: Tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến các quy định về quản lý an toàn đập, vận hành hồ chứa thủy điện nhằm nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức của các cơ quan quản lý nhà nước về thủy điện và các nhà máy thủy điện.

Thứ sáu: Về ứng dụng công nghệ mới. Để tận dụng tiềm năng thủy năng của dòng chảy, xu thế hiện nay đi sâu vào nghiên cứu đầu tư các nguồn thủy năng có cột nước thấp. Ưu điểm của loại công nghệ này là tận dụng tối đa nguồn thuỷ năng trên các con sông lớn để phát điện, vì cột nước phát điện thấp (chỉ từ 2,5m). Đồng thời khi xây dựng công trình sẽ giảm thiểu đền bù, giải phóng mặt bằng. Kết cấu công trình đơn giản, ngập lụt ít, hầu như không phải di dân mà chỉ đền bù đất nông nghiệp ven sông suối. Thuỷ điện cột nước thấp điều tiết hàng ngày, nên không ảnh hưởng lớn đến chế độ chảy tự nhiên của sông.

Để tận dụng nguồn thủy năng có cột nước thấp này, hiện nay ở nước ta đã nghiên cứu sử dụng các nhà máy thủy điện lắp đặt loại tua bin bóng đèn. Đây là loại tua bin mới được áp dụng ở nước ta, do đó đề nghị Bộ Công Thương có cơ chế khuyến khích đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện lắp đặt loại tua bin này.

Đồng thời cần áp dụng chính sách hạn chế đầu tư xây dựng các công trình thủy điện đào kênh dẫn dòng với cự ly dài để tìm vị trí cột nước thích hợp, làm thay đổi lưu lượng dòng chảy của các con sông suối, thực tế đã để lại những hệ lụy rất to lớn cho xã hội.

Năm 2016, tổng sản lượng điện sản xuất của 22 công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đạt 3,27 tỷ kWh, tổng giá trị sản xuất điện đạt 3.270 tỷ đồng, giá trị nộp ngân sách nhà nước trên 570 tỷ đồng thông qua các khoản thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên nước, phí dịch vụ môi trường rừng.

Kế hoạch năm 2017, tổng sản lượng điện sản xuất của 23 công trình thủy điện dự kiến đạt 3,6 tỷ kWh, tổng giá trị sản xuất điện dự kiến đạt trên 3.600 tỷ đồng, dự kiến nộp ngân sách nhà nước trên 630 tỷ đồng.

PHẠM THÁI, GIÁM ĐỐC SỞ CÔNG THƯƠNG ĐẮK LẮK

(Khi sao chép, trích dẫn nội dung, số liệu từ bài viết này phải ghi rõ "nguồn", hoặc "theo": TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM)

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động