Phát triển than, điện của TKV [tạm kết]: Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
07:38 | 22/05/2023
Phát triển than, điện của TKV [kỳ 3]: Bất cập trong hệ thống pháp luật (phần 3) Trong phần 3 của kỳ này là những hạn chế trong hệ thống văn bản pháp luật khác đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn CN Than - Khoảng sản Việt Nam (TKV). Đặc biệt là trong việc ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá liên quan... đang cản trở sự phát triển bình thường của ngành than, điện của TKV. |
Phát triển than, điện của TKV [kỳ 2]: Bất cập trong hệ thống pháp luật (phần 2) Trong kỳ này, Tạp chí Năng lượng Việt Nam sẽ đề cập đến những hạn chế trong hệ thống pháp luật khác (ngoài Luật Khoáng sản) đang gây áp lực và bế tắc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn CN Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV). |
Phát triển than, điện của TKV [kỳ 1]: Bất cập trong hệ thống pháp luật (phần 1) Trong chuyên đề này, Tạp chí Năng lượng Việt Nam sẽ đề cập đến những bất cập, hạn chế trong các văn bản pháp luật và kế hoạch hóa phát triển ngành than, ngành điện của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) - Nguyên nhân và các kiến nghị. Rất mong nhận được sự chia sẻ của bạn đọc. |
TẠM KẾT: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
Nguyên nhân khách quan:
1/ Ngành than, ngành điện có phạm vi rộng, chuyên sâu, nhiều phân ngành liên quan đến nhiều các cơ quan, ban, ngành, nhiều văn bản pháp luật có liên quan... nên khó đảm bảo được tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất và mất nhiều thời gian để nghiên cứu, soạn thảo, lấy ý kiến các bên.
2/ Hệ thống văn bản liên quan đến năng lượng nói chung, ngành than, ngành điện nói riêng chưa toàn diện, thống nhất, đồng bộ, rõ ràng. Bao gồm về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường, thị trường điện, năng lượng tái tạo, giá điện, các quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức... hoặc phân cấp, phân quyền chưa cụ thể.
3/ Việc ban hành cơ chế phối hợp, sử dụng tài liệu, kết nối liên vùng, liên ngành chưa được thực sự quan tâm khi triển khai thiết kế các dự án. Mặt khác, việc trao đổi thông tin giữa các vùng, ngành còn hạn chế do quy định về bảo mật tài liệu, thông tin trong các phân ngành năng lượng.
4/ Thiếu cơ chế hỗ trợ, hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước đầu tư ra nước ngoài thăm dò, khai thác than để đưa về Việt Nam phục vụ nhu cầu sử dụng trong nước. Công tác huy động nguồn lực tài chính để thăm dò, phát triển tài nguyên gặp nhiều khó khăn.
5/ Điều kiện sản xuất trong nước ngày càng khó khăn: Diện khai thác mỏ ngày càng xuống sâu, đi xa; thiếu diện đổ thải, cung độ đổ thải lớn… kéo theo giá thành khai thác than ngày càng tăng, ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp
6/ Công tác dự báo về nhu cầu thị trường than trong nước (đặc biệt là than cho sản xuất điện) và thế giới còn hạn chế, bị động. Nhu cầu thị trường than trong nước những năm vừa qua có nhiều biến động dẫn đến ngành than bị động trong sản xuất; sự cạnh tranh gay gắt của than nhập khẩu; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và thiếu hụt nguồn lực lao động nhất là lao động hầm lò.
7/ Công tác dự báo nhập khẩu than còn hạn chế; việc triển khai đầu tư hệ thống cảng nhập than tập trung thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong công tác khảo sát, lựa chọn địa điểm cảng; lựa chọn nhà đầu tư (do nguồn vốn đầu tư lớn).
Nguyên nhân chủ quan:
1/ Bộ máy quản lý Nhà nước về ngành năng lượng nói chung, ngành than, ngành điện nói riêng còn chồng chéo, đan xen. Mặt khác, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan quản lý còn chậm.
2/ Việc nhận thức về vai trò của ngành năng lượng nói chung và vị trí, vai trò của từng phân ngành năng lượng nói riêng có lúc, có nơi còn chưa đầy đủ, toàn diện. Một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau, nhưng chưa được tổng kết thực tiễn, kết luận, dẫn đến chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động.
3/ Tổ chức và đội ngũ cán bộ chủ yếu làm chuyên môn kỹ thuật nên việc tiếp cận dưới góc độ pháp lý tương đối khó khăn; trình độ kinh nghiệm chuyên môn kỹ thuật cao còn hạn chế.
4/ Công nghệ sử dụng than, điện đa phần lạc hậu, kém hiệu quả.
Kiến nghị các giải pháp khắc phục, hoàn thiện:
Thứ nhất: Giải pháp về cơ chế, chính sách nói chung:
1/ Phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí, năng lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới. Xoá bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định; Nhà nước điều tiết hợp lý thông qua các công cụ thị trường (thuế, phí, các quỹ…) và chính sách an sinh xã hội phù hợp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính thị trường để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
2/ Rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện các chính sách về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, sử dụng mặt nước, chống đầu cơ, trục lợi, lợi ích nhóm trong lĩnh vực năng lượng. Đổi mới chính sách tài chính theo hướng khuyến khích, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước; khuyến khích các dự án đầu tư năng lượng theo hình thức đối tác công tư (PPP). Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh. Hoàn thiện chính sách thuế khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, tái tạo.
Mặt khác, xây dựng cơ sở pháp lý để có thể hình thành và vận hành hiệu quả các quỹ về phát triển năng lượng bền vững, thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả theo hướng xã hội hoá, bảo đảm độc lập về tài chính, không trùng lặp với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước và hạn chế việc làm tăng chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế và thực hiện chính sách về tiêu chuẩn tỉ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu đầu tư và cung cấp năng lượng.
3/ Sửa đổi, hoàn thiện các luật chuyên ngành về điện lực, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành năng lượng phù hợp thông lệ quốc tế , cũng như tình hình phát triển của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, làm cơ sở thực hiện hiệu quả hơn cơ chế thị trường.
Cùng với đó là nghiên cứu, thực hiện luật hoá việc điều hành giá điện và một số ưu đãi cho dự án được khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực năng lượng. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kiểm soát và điều phối điện lực. Nghiên cứu, xây dựng và ban hành luật về năng lượng tái tạo, luật an ninh năng lượng.
4/ Nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt trong phân ngành điện, bảo đảm tính ổn định, đồng bộ và linh hoạt, gắn kết với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương và một số ngành khác. Rà soát, điều chỉnh và sớm ban hành các quy hoạch liên quan đến phát triển năng lượng theo Luật Quy hoạch.
5/ Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển công nghiệp chế tạo và dịch vụ phục vụ ngành năng lượng theo hướng tăng cường nội lực, hướng đến xuất khẩu. Hoàn thiện khung pháp lý, khuyến khích và đẩy mạnh triển khai mô hình các công ty dịch vụ năng lượng. Khẩn trương xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách khuyến khích nâng cao tỉ lệ nội địa hoá trong ngành năng lượng; bảo đảm thực hiện tốt các yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể về tỉ lệ nội địa hoá đối với các nhà máy điện nói riêng và dự án năng lượng nói chung. Hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất của Nhà nước để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện những công trình, dự án phức tạp, kỹ thuật cao trong ngành năng lượng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
6/ Tăng cường phân công, phân cấp quản lý Nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực năng lượng; giải quyết kịp thời những vướng mắc và rào cản về chính sách, luật pháp.
7/ Triển khai xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch.
8/ Hướng hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia lĩnh vực khai thác khoáng sản cũng như trong ngành than đến năm 2030, cần dựa trên những quan điểm chủ đạo sau đây:
- Tính đồng bộ: Đồng bộ về mức độ bao phủ trong từng nhóm, số lượng và loại hình văn bản (quy chuẩn, tiêu chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật), nhất là các quy chuẩn, tiêu chuẩn công trình có ảnh hưởng tới an toàn, môi trường và xã hội. Cần phải áp dụng thống nhất các chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật), đảm bảo tính hài hòa giữa các tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
- Tính kế thừa: Cần dựa vào hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy phạm hướng dẫn trong ngành đang vận hành để rà soát, bổ sung, sửa đổi và biên soạn mới nâng cấp thành tiêu chuẩn và quy chuẩn Việt Nam.
- Tính hiện đại: Quy chuẩn, tiêu chuẩn phải tiếp cận được với trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại. Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia phải tiệm cận với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế.
- Tính linh hoạt, tính mở: Quy chuẩn, tiêu chuẩn thiết kế trong ngành than cần đảm bảo tính linh hoạt, tính mở để người áp dụng phát huy sáng tạo, nâng cao chất lượng và cải tiến quy trình công nghệ. Cần xác định tiêu chí “tiêu chuẩn tối thiểu” để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, suất đầu tư, nhưng khuyến khích đạt được ở mức cao hơn.
- Xây dựng mới: Cần đầu tư xây dựng tiêu chuẩn mới trong các công tác khảo sát công trình và thủy văn công trình khai thác mỏ, quy hoạch công trình và mặt bằng mỏ than, vận tải, công tác trắc địa, đào chống đường lò, vật liệu chống lò… Trên cơ sở đó, xây dựng Quy chuẩn công trình mỏ nhằm rút gọn thay thế các văn bản đã ban hành, đảm bảo tiện ích và hiệu quả.
- Đổi mới và hội nhập: Biên soạn quy chuẩn, tiêu chuẩn theo chuyên đề tạo điều kiện hợp tác, liên kết và trao đổi dữ liệu để được chấp nhận một cách rộng rãi trên cơ sở: Minh bạch - thích ứng - bình đẳng và đồng thuận - dễ dàng tiếp cận. Trong nội dung tiêu chuẩn có những quy định bắt buộc áp dụng và có những quy định khuyến khích áp dụng để các nhà quản lý, đầu tư, các đơn vị tư vấn vận dụng cho thuận tiện và đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ hai: Giải pháp đối với phân ngành than:
Về các chính sách chung:
1/ Nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung Luật Khoáng sản, các nghị định, thông tư có liên quan đến hoạt động khoáng sản, Luật 69/2014/QH13 và Luật Đất đai để phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo tuân thủ quy định của Nhà nước và thuận lợi cho doanh nghiệp khi thực hiện.
2/ Xây dựng cơ chế, chính sách, giải pháp nhằm bảo đảm công tác thăm dò, khai thác than có hiệu quả tại các khu vực trên mặt là các loại rừng, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
3/ Xây dựng chính sách khuyến khích nghiên cứu, áp dụng công nghệ tiên tiến trong khai thác, chế biến than với mục tiêu khai thác tận thu tối đa tài nguyên, trữ lượng than, đảm bảo an toàn và thân thiện với môi trường.
4/ Nhà nước tổ chức điều tra, đánh giá đối với bể than Sông Hồng và một số bể than khác thuộc vùng thềm lục địa Việt Nam để đảm bảo yêu cầu cho công tác thăm dò, phát triển các dự án khai thác than.
5/ Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong việc cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án theo Quy hoạch phân ngành than được phê duyệt.
6/ Các địa phương có chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho các đơn vị ngành than trong việc giải phóng mặt bằng, tái định cư để tiến hành khai thác (nhất là trong các khu vực trụ bảo vệ các công trình trên mặt) để khai thác tối đa tài nguyên than.
7/ Thực hiện dự trữ than phù hợp, đáp ứng yêu cầu cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất điện; kịp thời đối phó với những rủi ro trong việc nhập khẩu và những biến động cực đoan của thời tiết, dịch bệnh nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Về cơ chế đầu tư:
1/ Xây dựng cơ chế, chính sách, đa dạng hoá các hình thức đầu tư, cải cách các thủ tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả đầu tư, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình mỏ than. Ban hành cơ chế đặc thù phù hợp với quy định của pháp luật trong việc sử dụng các sản phẩm nội bộ, trong đó ưu tiên giảm thiểu thủ tục trong công tác đào lò xây dựng cơ bản.
2/ Đẩy mạnh hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài ngành, tận dụng khả năng hợp tác với nước ngoài, trọng tâm là lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển giao - tiếp nhận công nghệ mới, để thực hiện các dự án khai thác than ở các khu vực và điều kiện địa chất mà ngành than chưa chủ động được công nghệ.
3/ Tích cực tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài, tăng tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam nhằm chủ động trong quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của dự án đầu tư, đảm bảo hiệu quả và lợi ích của bên Việt Nam.
Về cơ chế giá than:
Giá bán than sản xuất trong nước theo cơ chế thị trường, đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế, có lợi nhuận ở mức hợp lý cho đơn vị sản xuất, kinh doanh than, trên cơ sở khai thác tận thu tối đa nguồn than và hiệu quả kinh tế, xã hội.
Mặt khác, xem xét nghiên cứu thí điểm áp dụng chỉ số giá than trong giao dịch nhập khẩu than và triển khai áp dụng rộng rãi nếu phù hợp với điều kiện cụ thể của thị trường than Việt Nam.
Về cơ chế, chính sách tiêu thụ và xuất khẩu than:
1/ Than sản xuất trong nước được ưu tiên đáp ứng tối đa cho các ngành công nghiệp trong nước và dân dụng, sinh hoạt; chỉ xuất khẩu các loại than trong nước không có nhu cầu.
2/ Các doanh nghiệp cung cấp than chịu trách nhiệm trước khách hàng về hợp đồng đã ký, đặc biệt là các hợp đồng dài hạn cung ứng cho các nhà máy nhiệt điện liên quan tới đảm bảo an ninh năng lượng.
3/ Thực hiện cơ chế tập trung đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than trong nước thông qua một số doanh nghiệp nhà nước nòng cốt để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Về cơ chế, chính sách nhập khẩu than và đầu tư khai thác ở nước ngoài:
1/ Khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp đồng bộ để nhập khẩu than; đầu tư khai thác than ở nước ngoài, kể cả đầu tư mua mỏ than.
2/ Đảm bảo sự đồng bộ trên tất cả các phương diện: Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, địa phương và doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ.
3/ Thực hiện chính sách đối ngoại năng lượng linh hoạt, hiệu quả, bình đẳng, cùng có lợi. Hài hòa giữa các chính sách ngoại giao năng lượng, thương mại, đầu tư, tài chính và hợp tác với các nước có tài nguyên than và các tổ chức khai thác, xuất khẩu than.
4/ Để đảm bảo có được nguồn than nhập khẩu ổn định lâu dài cho nền kinh tế, đặc biệt than phục vụ cho sản xuất điện, TKV đã báo cáo Chính phủ, Bộ Công Thương cho phép tiến hành đàm phán mua than nhập khẩu trực tiếp và ký kết các hợp đồng mua bán than dài hạn với các nhà cung cấp than lớn, tiềm năng trên thế giới (đặc biệt nguồn than từ Úc).
5/ Đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than theo hướng huy động tối đa nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác nhau trong nước và nước ngoài.
Về chính sách sử dụng than:
1/ Xây dựng chính sách khuyến khích các hộ tiêu dùng than trong nước đầu tư công nghệ mới để nâng cao hiệu quả sử dụng than, cũng như chuyển đổi sang dùng các loại năng lượng khác có thể tái tạo nhằm giảm lượng than nhập khẩu.
2/ Tiếp tục phát triển nhiệt điện than, nhưng với công nghệ mới, hiệu suất cao, giảm tiêu hao than và giảm phát thải (cả khí thải, chất thải rắn) và tăng cường tái chế sử dụng tro, xỉ nhiệt điện than.
3/ Xây dựng chính sách sử dụng tiết kiệm than, tận thu nguồn than chất lượng thấp (nhiệt trị thấp, độ tro cao) đưa vào sử dụng, hoặc chuyển sang sử dụng loại than chất lượng thấp hơn.
Về chính sách thuế, phí:
Xem xét gộp tiền cấp quyền khai thác mỏ và thuế tài nguyên, cũng như xem xét giảm thuế tài nguyên xuống mức ngang bằng các nước trong khu vực và giá tính thuế tài nguyên là giá FOB của từng chủng loại than (trừ chi phí sàng tuyển, vận chuyển từ mỏ ra cảng). Trong trường hợp chưa gộp thì xem xét điều chỉnh chính sách thu tiền cấp quyền khai thác theo hướng được nộp theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm.
Cùng với đó là xem xét thay thế quy định của Luật thuế Bảo vệ môi trường đánh vào than bằng quy định đánh phí phát thải trực tiếp đối với khí thải CO2 và các chất thải khác, phù hợp với thực tế phát thải của nhà máy điện, nhằm buộc các chủ đầu tư đổi mới công nghệ đối với nhà máy hiện có và đầu tư xây dựng nhà máy mới với công nghệ tiên tiến để giảm mức phát thải, đáp ứng mục tiêu đề ra trong Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị.
Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
- Sớm chỉ đạo Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ngành và địa phương rà soát điều chỉnh, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến phát triển năng lượng làm tiền đề cho các doanh nghiệp triển khai thực hiện.
- Sớm rà soát, bãi bỏ, hoặc ban hành các nghị quyết hướng dẫn để đảm bảo tính hệ thống, thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật.
Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành liên quan:
Để thực hiện theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, Bộ Công Thương, Uỷ Ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp cần báo cáo, đề xuất Chính phủ để có những cơ chế, chính sách và những hướng dẫn rõ ràng. Cụ thể:
Đối với than: Cần có chính sách hỗ trợ về an sinh xã hội, về chuyển đổi nghề nghiệp làm căn cứ để triển khai trong thời gian tới và để TKV có kế hoạch chuẩn bị đầu tư mỏ mới phù hợp trong những giai đoạn tiếp theo góp phần phát triển năng lượng Việt Nam bền vững và đảm bảo an ninh năng lượng. Mặt khác, hỗ trợ về công nghệ, tài chính để TKV tham gia sản xuất Amoniac, H2 từ than sản xuất trong nước.
Đối với điện: Cần sớm ban hành hướng dẫn về quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật về nhà máy nhiệt điện than đốt lẫn với các loại nguyên liệu đầu vào khác (Amoniac, H2, dăm gỗ, biomass...). Cùng với đó là ban hành chính sách về giá điện khi các nhà máy nhiệt điện than chuyển đổi năng lượng, đốt lẫn than với các loại nguyên liệu đầu vào khác.
Để TKV thực hiện phát triển hài hoà theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Chính phủ nên phân cấp cho TKV chủ động trong việc chuyển đổi ngành nghề sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các dự án về năng lượng tái tạo nhằm cân bằng giữa nhiệt điện than - năng lượng tái tạo, cũng như đảm bảo thu nhập, an sinh xã hội cho người lao động.
Kiến nghị các địa phương:
1/ Chỉ đạo các sở, ban, ngành và các cơ quan liên quan cập nhật danh mục Quy hoạch ngành năng lượng đã được Chính phủ phê duyệt trong quá trình thực hiện lập quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh tránh chồng chéo quy hoạch.
2/ Khi lập các quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, sử dụng đất, rừng, khu công nghiệp, dân cư và khi địa phương xem xét chấp thuận các dự án có sử dụng đất mà phía dưới có tài nguyên than cần ưu tiên thăm dò để khai thác, tận thu tài nguyên trước khi thực hiện quy hoạch các dự án khác.
3/ Xem xét có chủ trương, đồng thuận để các đơn vị thực hiện thi công mở tạm các đường phục vụ qua rừng, sử dụng tạm các khu vực đất rừng phòng hộ, sản xuất để thực hiện công tác thăm dò. (Chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm hoàn trả lại mặt bằng sau khi hoàn tất công việc).
4/ Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các đơn vị sản xuất than trong việc giải quyết đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thuê đất làm đường khi triển khai thăm dò, thuê đất thực hiện các dự án. Tăng cường sử dụng đất đá thải, tro xỉ làm vật liệu san lấp nền và vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh nhằm tăng thu ngân sách cho địa phương.
5/ Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ triển khai trong quá trình khảo sát, hoàn thiện hồ sơ, chủ trương sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, rừng, cũng như hỗ trợ các thủ tục chuẩn bị dự án đầu tư (cấp giấy chứng nhận đầu tư, quy hoạch chi tiết, thoả thuận địa điểm thực hiện dự án...)./.
PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM