Kiến nghị thúc đẩy hoàn thiện các yếu tố quan trọng đối với phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam
06:35 | 23/09/2025
![]() Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn, Văn phòng Chính phủ vừa có Văn bản số: 2862/VPCP-CN gửi các bộ: Công Thương, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Môi trường - theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nghiên cứu và có ý kiến về báo cáo kiến nghị của Tạp chí Năng lượng Việt Nam về thúc đẩy tiến độ, đảm bảo hiệu quả đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2, gửi Bộ Công Thương tổng hợp. Nội dung tổng hợp bao gồm các đề xuất (nếu có), báo cáo Thủ tướng Chính phủ. |
I. Tóm tắt kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam:
1. Văn bản hướng dẫn thi hành Luật Năng lượng Nguyên tử:
Quốc hội chính thức thông qua Luật Năng lượng Nguyên tử số 94/2025/QH15 vào ngày 27/6/2025, đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong hành lang pháp lý phục vụ phát triển điện hạt nhân Việt Nam.
Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật (bao gồm nghị định, thông tư và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật) đòi hỏi phải có định hướng, phương pháp tiếp cận để không bỏ trống các phạm vi cần hướng dẫn, hoặc dự kiến quá nhiều văn bản cần dự thảo - ban hành, dẫn đến không khả thi.
Trước đây, sau khi Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, giúp Chính phủ dự thảo trình Quốc hội ban hành Luật Năng lượng Nguyên tử (Luật số 18/2008/QH12), Bộ Công Thương được giao chủ trì xây dựng Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng Nguyên tử về Nhà máy điện hạt nhân (Nghị định số 70/2010/NĐ-CP). Kết quả là đã bộc lộ bất cập do Luật cũ, Nghị định cũ và các thông tư, tiêu chuẩn được ban hành sau đó đã không bao phủ hết những vấn đề về nhà máy điện hạt nhân. Cơ quan có trách nhiệm đã đề xuất một kế hoạch dự kiến phải xây dựng hàng trăm thông tư và các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật ở giai đoạn 2009-2016 - một việc đã không thể thực hiện được trong thời gian ngắn để đáp ứng yêu cầu dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.
Cần nhấn mạnh rằng: Không lĩnh vực nào có một hệ thống đầy đủ các nguyên tắc cơ bản, tiêu chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật của tổ chức quốc tế như lĩnh vực năng lượng nguyên tử, trong đó có điện hạt nhân.
2. Nhân lực và hệ sinh thái tri thức:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 26/5/2025 phê duyệt đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực phục vụ phát triển điện hạt nhân đến năm 2035”. Theo đề án này, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển khai thực hiện Đề án; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát tình hình triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án; (một số nhiệm vụ cụ thể khác được giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ và các tập đoàn EVN, PVN). Cụ thể một số nhiệm vụ như:
- Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng kế hoạch, thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực điện hạt nhân.
- Bộ Tài chính ưu tiên phân bổ ngân sách nhà nước cho các bộ, ngành có liên quan theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, đầu tư công và quy định pháp luật có liên quan, bảo đảm kinh phí triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án.
- EVN và PVN chủ trì đào tạo lại, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2.
Quyết định số 1012/QĐ-TTg chưa làm rõ nguồn nhân lực “nghiên cứu - triển khai và hỗ trợ kỹ thuật” ở Phụ lục của Quyết định có bao gồm nhân lực hỗ trợ kỹ thuật thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam hay không.
Tuy nhiên, trong Thông báo số 8430/VPCP-KGVX, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, cơ quan liên quan xây dựng Đề án đào tạo nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Nếu hiểu “lĩnh vực năng lượng nguyên tử” bao gồm cả “phát triển điện hạt nhân”, thì cần có cân nhắc đối tượng áp dụng phù hợp của Đề án số 1012/QĐ-TTg và đề án mới giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì lập theo Thông báo số 8430/VPCP-KGVX.
Ưu điểm nổi bật của Đề án 1012/QĐ-TTg là có tầm nhìn dài hạn và lộ trình rõ ràng; có hệ thống nhiệm vụ và giải pháp toàn diện; đã xác định rõ vai trò chủ trì và phối hợp. Tuy nhiên, so sánh với hướng dẫn của IAEA, thì Đề án còn thiếu gắn kết giữa đào tạo và nhu cầu thực tế; chưa có cơ chế giám sát - đánh giá cụ thể; chưa làm rõ năng lực đội ngũ giảng viên, tài liệu đào tạo và cơ sở vật chất; chưa có cam kết chính sách và tài chính ổn định.
Một điều cần lưu ý: Theo IAEA và kinh nghiệm quốc tế là “phát triển nguồn nhân lực phải gắn kết với hệ sinh thái tri thức”. Nếu không duy trì, kết nối trí thức giữa các thế hệ, thì việc đào tạo nhân lực rất lãng phí và không đáp ứng được yêu cầu một lĩnh vực cần tri thức đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực như điện hạt nhân.
3. Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân:
Một trong những yêu cầu cốt lõi trong giai đoạn đầu phát triển chương trình điện hạt nhân là thành lập tổ chức trung tâm để điều phối và quản lý chương trình ở cấp quốc gia - gọi là Tổ chức triển khai chương trình điện hạt nhân (NEPIO).
Hiện nay, Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân theo Quyết định 72/QĐ-TTg ngày 10/01/2025 (và kiện toàn theo quyết định 1689/QĐ-TTg ngày 06/8/2025) đã được Chính phủ thành lập với các đặc điểm tương đồng với tiêu chí NEPIO của IAEA. Ban chỉ đạo này có đầy đủ các yếu tố cần thiết như: Thẩm quyền điều phối cấp quốc gia, tổ chuyên gia giúp việc thường trực, phân công cụ thể giữa các bộ, ngành và không chồng lấn với vai trò của cơ quan pháp quy, hay nhà đầu tư.
Như vậy, về bản chất và chức năng, Ban Chỉ đạo có thể được xem là NEPIO theo khuyến nghị của IAEA (dù không nhất thiết phải là một pháp nhân riêng biệt).
4. Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân quốc gia:
Giai đoạn thẩm tra trước khi trình ban hành Luật Năng lượng Nguyên tử số 94/2025/QH15, đã có trao đổi kỹ lưỡng ở cấp Lãnh đạo Quốc hội và Chính phủ, thấu hiểu vai trò quan trọng của Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân quốc gia đối với bảo đảm an toàn nhà máy điện hạt nhân. Hiện nay, Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ được giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này với 2 vế quản lý: An toàn và phát triển. Năng lượng hạt nhân có tính rủi ro, nên cần chú ý việc có tính độc lập tương đối. Điều này không thể hiện ở trong việc quản lý ứng dụng, mà thể hiện ở chỗ quản lý Nhà nước về cấp phép. Đồng thời cũng phải có sự độc lập tương đối cả về thể chế và kỹ thuật.
Giai đoạn trước năm 2016, Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của Bộ Khoa học và Công nghệ và quốc tế, đã xây dựng được đội ngũ cán bộ (lúc cao điểm có tới 90 cán bộ được đào tạo bài bản). Đến nay, Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân chỉ còn 45 người, trong đó số cán bộ được đào tạo bài bản về quản lý an toàn điện hạt nhân chỉ còn khoảng 5 người. Mặc dù hiện Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân đang nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền, được giao xây dựng Đề án phát triển tiềm lực của Cục, nhưng để có được khoảng 100 cán bộ chuyên ngành có năng lực, có hiểu biết về khoa học an toàn cốt lõi, đủ đáp ứng trách nhiệm trong ngắn hạn và trung hạn không phải là việc dễ giải quyết.
Chưa kể vấn đề về bảo đảm tài chính cho hoạt động có tính độc lập của Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân không bị chi phối bởi các chỉ đạo hành chính - là việc không dễ giải quyết. Với yêu cầu, Cục cần chuyển đổi từ cơ quan hành chính thành cơ quan điều phối chiến lược quốc gia về an toàn hạt nhân, có năng lực kỹ thuật, có thẩm quyền độc lập và có tư duy quốc tế hóa. Vì vậy, cần có đề án chuyển đổi mạnh mẽ để “Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân” phát triển thành “Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân Quốc gia” theo quy định của Luật Năng lượng Nguyên tử số 94/2025/QH15. Đây là việc rất cấp bách.
5. Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật:
Theo hướng dẫn và kinh nghiệm quốc tế, nhiệm vụ quản lý dự án điện hạt nhân được giao cho tổ chức vận hành; nhiệm vụ hỗ trợ quản lý nhà nước về an toàn dự án điện hạt nhân được giao cho Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân. Đồng thời, ở cấp quản lý quốc gia có Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân, nhưng khối lượng công việc quản lý nhiều đến mức mà những việc hỗ trợ kỹ thuật thường phải phân định giữa hỗ trợ kỹ thuật nội bộ và hỗ trợ kỹ thuật bên ngoài. Hỗ trợ kỹ thuật bên ngoài do tổ chức hỗ trợ kỹ thuật quốc gia, tổ chức hỗ trợ kỹ thuật trong cơ quan nghiên cứu, hoặc trường đại học, hoặc thuộc tập đoàn nhà nước, hoặc liên kết công - tư đảm nhiệm.
Chỉ tính riêng các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật pháp quy, các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật cần sở hữu ba nhóm nguồn lực cốt lõi sau đây:
- Nhân lực đa ngành: Đội ngũ chuyên gia bao quát các lĩnh vực từ vật lý hạt nhân, cơ khí, thủy - nhiệt, điện - điều khiển, đến khoa học vật liệu, môi trường, phân tích rủi ro và ứng phó sự cố.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại: Bao gồm các phòng thí nghiệm chuyên ngành, hệ thống mô phỏng, siêu máy tính cho tính toán an toàn và các cơ sở thử nghiệm, thực nghiệm. Trên cơ sở cần phải hình thành trung tâm điều hành, ứng phó sự cố hạt nhân cấp quốc gia và trong trung tâm này phải có công cụ mô phỏng, huấn luyện thực địa để giả định sự cố, đào tạo.
- Hợp tác quốc tế: Tham gia mạng lưới hợp tác toàn cầu và các diễn đàn tổ chức hỗ trợ kỹ thuật quốc tế, nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật công nghệ và đồng bộ hóa tiêu chuẩn an toàn.
Về danh nghĩa, nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật bên ngoài được giao cho Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam. Tuy nhiên, nhiệm vụ này cần được triển khai thực hiện trong một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, có cơ chế phối hợp minh bạch và hội nhập sâu rộng với mạng lưới các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật toàn cầu.
6. Chủ đầu tư dự án điện hạt nhân:
Chính phủ đã giao nhiệm vụ chủ đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2 cho Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN). Hai tập đoàn này có trách nhiệm chính về an toàn và hiệu quả triển khai dự án.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy: Nhiều dự án điện hạt nhân trên thế giới bị trì hoãn tiến độ, hoặc tăng chi phí vượt dự kiến chủ yếu do chưa tuân thủ đầy đủ khuyến nghị của IAEA. Có thể rút ra 5 nhóm nguyên nhân chính:
- Quá kỳ vọng vào công nghệ hiện đại được thực hiện lần đầu tiên; độ phức tạp kỹ thuật và công nghệ không được lường thấy hết.
- Cơ chế tài chính phức tạp, như khi hợp đồng EPC thiếu minh bạch, hoặc phụ thuộc gần như hoàn toàn vào 1 nguồn vay; thiếu nguồn nhân lực được đào tạo chuyên sâu.
- Quản lý dự án yếu kém, như thiếu phối hợp hiệu quả giữa chính phủ, chủ đầu tư, nhà thầu và cơ quan pháp quy; năng lực quản lý không đáp ứng quy mô phức tạp, các vấn đề kỹ thuật chưa lường trước.
- Khung pháp lý chưa ổn định, thay đổi quy định, cũng như sự gián đoạn và thay đổi kế hoạch trong quá trình triển khai.
- Lạm phát và biến động thị trường.
7. Phát triển điện hạt nhân nhỏ:
Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1131/QĐ-TTg, ngày 12/6/2025, ban hành danh mục công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược, trong đó có sản phẩm Lò phản ứng hạt nhân nhỏ (danh mục nhóm thứ tự số 8, phụ lục I).
Tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế, có thể thấy các lý do chính nên phát triển điện hạt nhân nhỏ ở Việt Nam, bao gồm:
- Có tính linh hoạt về địa điểm (cung cấp cho khu vực xa lưới điện, khu công nghiệp, trung tâm dữ liệu lớn, khử mặn…).
- Có thể lắp đặt theo cụm (mô-dun) để tăng công suất dần - linh hoạt tài chính và quy hoạch.
- Thời gian xây dựng (tính từ khi bắt đầu thi công, sau khi hoàn chỉnh các thủ tục chuẩn bị đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà thầu và xong bồi thường giải phóng mặt bằng) dự kiến khoảng 3 năm, tránh được rủi ro đội vốn, thi công kéo dài.
- Tuổi thọ thiết kế 60 năm, phù hợp với nhiều mục đích sử dụng của Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam có thể gặp các thách thức và rào cản như:
- Chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định cụ thể cho SMR; công nghệ SMR chưa được kiểm chứng.
- Thiếu cơ sở hạ tầng, nhân lực và trình độ hạt nhân chuyên sâu.
- Suất chi phí đầu tư ban đầu cao dù chi phí vận hành có thể giảm.
- Thiếu cơ chế tài chính và pháp lý để thu hút đầu tư quốc tế.
8. Chuyển đổi số:
Việc đưa nội dung chuyển đổi số vào Luật Năng lượng Nguyên tử số 94/2025/QH15 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy chính sách. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang nhấn mạnh chuyển đổi số trong hợp phần Khoa học Công nghệ - Đổi mới sáng tạo - Chuyển đổi số quốc gia. Mặt khác, các quốc gia có điện hạt nhân phát triển đã áp dụng chuyển đổi số toàn diện, mang lại cho họ sự hiệu quả, thông suốt trong vận hành, giám sát hoạt động điện hạt nhân, đồng thời góp phần thúc đẩy hơn sự an toàn, công khai và minh bạch để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Là quốc gia đi sau, Việt Nam không nên bỏ lỡ những bài học kinh nghiệm và các thực hành đã được chứng thực ở các quốc gia đó.
Chú ý rằng, chuyển đổi số bao trùm tất cả các lĩnh vực: Đánh giá địa điểm và thiết kế; Quản lý an toàn và văn hóa an toàn; Bảo vệ bức xạ và môi trường; Quản lý chất thải phóng xạ và tháo dỡ; Bảo đảm năng lực cơ quan pháp quy; Phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái tri thức; Phát triển hệ thống quản lý tích hợp… Chuyển đổi số cũng phục vụ cho công tác thông tin tuyên truyền.
II. Đề xuất và kiến nghị:
1. Khung pháp lý và pháp quy - Từ bất cập đến định hướng ba tầng:
Trong bối cảnh Quốc hội và Chính phủ đã có chỉ đạo phải tiếp cận hệ thống các tiêu chuẩn an toàn của IAEA (như nền tảng an toàn điện hạt nhân), xin được đề xuất và kiến nghị:
a) Nguyên tắc xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Năng lượng Nguyên tử số 94/2025/QH15. Theo đó:
- Nội luật hóa các nguyên tắc và tiêu chuẩn của IAEA theo thứ tự: Các nguyên tắc cơ bản; Các yêu cầu xác định rõ trách nhiệm pháp lý và kỹ thuật; Các hướng dẫn cho các bên tham gia thực hiện dự án điện hạt nhân.
- Thiết kế văn bản pháp quy của Việt Nam theo cấu trúc ba tầng: Tách bạch giữa các Quy định mang tính nguyên tắc (nghị định); Yêu cầu kỹ thuật (thông tư) và Hướng dẫn thực hiện (tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, sổ tay hướng dẫn).
- Lồng ghép văn hóa an toàn: Các chương trình đào tạo, giám sát và cấp phép cần chú trọng khía cạnh con người, đạo đức nghề nghiệp và nhận thức an toàn.
- Hài hòa hóa tiêu chuẩn: Cần từng bước chuyển đổi từ hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam hiện hành sang cấu trúc tương thích với các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc của IAEA, đồng thời sử dụng các tiêu chuẩn mang tính khuyến cáo làm tài liệu kỹ thuật chi tiết.
b) Bảo đảm đầy đủ các phạm vi cần bao quát, bao gồm:
- Đánh giá địa điểm và thiết kế.
- Quản lý an toàn và văn hóa an toàn.
- Bảo vệ bức xạ và môi trường.
- Quản lý chất thải phóng xạ và tháo dỡ.
- Bảo đảm năng lực cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân, tổ chức hỗ trợ kỹ thuật, tổ chức triển khai dự án - vận hành nhà máy điện hạt nhân.
- Phát triển nguồn nhân lực và hệ sinh thái tri thức.
- Phát triển hệ thống quản lý tích hợp trên nền tảng số.
- Phối hợp các bên liên quan.
2. Nguồn nhân lực và tri thức - Liên kết thế hệ, hội nhập quốc tế:
Dựa trên đánh giá Đề án 1012/QĐ-TTg và bài học từ các quốc gia đi trước, có thể đưa ra một số định hướng chiến lược và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đào tạo và duy trì nguồn nhân lực điện hạt nhân tại Việt Nam. Các gợi ý dưới đây được đề xuất theo 5 nhóm giải pháp có tính hệ thống và khả thi trong bối cảnh Việt Nam đang tái khởi động quá trình chuẩn bị hạ tầng cho chương trình điện hạt nhân.
a) Xây dựng chiến lược nhân lực gắn với lộ trình chương trình điện hạt nhân, bao gồm:
- Rà soát và điều chỉnh Đề án 1012 để tích hợp trực tiếp với lộ trình triển khai chương trình điện hạt nhân, gắn đào tạo với từng giai đoạn (chuẩn bị dự án, đánh giá địa điểm, cấp phép, thiết kế, xây dựng, nghiệm thu và vận hành).
- Thiết lập cơ chế dự báo nhu cầu nhân lực theo từng vị trí (quản lý, chuyên gia kỹ thuật, giảng viên, vận hành viên...), theo từng tổ chức (chủ đầu tư, cơ quan an toàn, viện nghiên cứu...) và theo từng chức năng (kỹ thuật và thiết kế, vận hành và bảo trì, an toàn và an ninh, hậu cần và hỗ trợ).
- Áp dụng phương pháp hoạch định nguồn nhân lực chiến lược trên nền tảng dữ liệu định lượng, thay vì chỉ đặt mục tiêu đầu vào tổng quát.
b) Phát triển khung năng lực quốc gia cho nhân lực điện hạt nhân, cụ thể là:
- Phối hợp với IAEA để xây dựng và ban hành Khung năng lực quốc gia cho từng nhóm chức năng với 5 nhóm lĩnh vực chính, như: Nhóm chức năng quản lý và giám sát, nhóm chức năng kỹ thuật và thiết kế, nhóm chức năng vận hành và bảo trì, nhóm chức năng an toàn và an ninh, nhóm chức năng hậu cần và hỗ trợ; tương ứng với từng nhóm đối tượng chức danh: Quản lý, chuyên gia kỹ thuật, giảng viên, vận hành viên...
- Tổ chức rà soát các chương trình đào tạo hiện có tại các đại học và viện nghiên cứu, điều chỉnh theo mô hình năng lực, đảm bảo chuẩn đầu ra phù hợp với từng vị trí làm việc trong tương lai.
- Thiết lập hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo và cấp chứng chỉ nhân lực theo tiêu chuẩn quốc tế, tiến tới công nhận chéo với các đối tác trong khu vực.
c) Thiết lập cơ chế phối hợp ba bên (nhà nước - doanh nghiệp - cơ sở giáo dục đào tạo), như:
- Thành lập một Mạng lưới quốc gia đào tạo nhân lực điện hạt nhân, gồm các đại diện từ Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công Thương, EVN, PVN, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, các cơ sở giáo dục và tổ chức quốc tế. Mạng lưới này có nhiệm vụ điều phối chương trình đào tạo, chia sẻ dữ liệu và thống nhất chuẩn năng lực.
- Thí điểm mô hình kết hợp đào tạo học thuật và thực hành kỹ thuật, gắn sinh viên với cơ sở công nghiệp ngay từ khi còn đang học.
- Khuyến khích doanh nghiệp tham gia tài trợ học bổng, tổ chức đào tạo nội bộ và tiếp nhận sinh viên thực tập, từ đó tạo nguồn tuyển dụng ổn định.
d) Đầu tư cho giảng viên, tài liệu và cơ sở thực hành, bao gồm:
- Xây dựng Chương trình phát triển giảng viên hạt nhân cấp quốc gia, bao gồm đào tạo nâng cao, cử đi học nước ngoài, hỗ trợ nghiên cứu và biên soạn giáo trình chuẩn hóa.
- Biên dịch và nội địa hóa các tài liệu đào tạo của các tổ chức quốc tế và các đối tác song phương; xây dựng thư viện điện tử chuyên ngành hạt nhân phục vụ giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến kiến thức.
- Đầu tư xây dựng trung tâm mô phỏng và cơ sở thực hành đa năng tại các trường đại học cao đẳng (tham gia đề án), hướng đến hình thành một trung tâm đào tạo hạt nhân tích hợp cấp quốc gia.
e) Bảo tồn tri thức và duy trì năng lực trong giai đoạn chờ triển khai, như:
- Thiết lập hệ thống lưu trữ tri thức chuyên ngành hạt nhân, tích hợp dữ liệu từ các chuyên gia, tài liệu nghiên cứu, dự án cũ và chương trình hợp tác quốc tế.
- Áp dụng cơ chế giảng viên - cố vấn giữa chuyên gia cao tuổi và thế hệ trẻ nhằm chuyển giao kinh nghiệm, duy trì năng lực lõi trong thời gian gián đoạn, hoặc chậm tiến độ.
- Hỗ trợ tài chính và nghiên cứu cho các chuyên gia đã về hưu có khả năng đào tạo, tư vấn, hoặc biên soạn tài liệu.
f) Có chính sách thu hút nguồn nhân lực tham gia học tập, làm việc trong lĩnh vực điện hạt nhân:
- Thu hút sinh viên chính quy qua cơ chế miễn giảm học phí, bố trí công việc sau tốt nghiệp, mức lương phù hợp.
- Thu hút chuyên gia trong những ngành nghề có liên quan trong nước và quốc tế đã được đào tạo về điện hạt nhân phục vụ cho Đề án.
3. Ban Chỉ đạo - Hạt nhân của cơ chế triển khai quốc gia:
Để Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân thực sự vận hành hiệu quả như một NEPIO, cần sớm ban hành quy chế hoạt động rõ ràng, bảo đảm sự phối hợp liên ngành mạch lạc. Đồng thời phát huy vai trò chủ động tích cực của Tổ giúp việc thuộc Ban chỉ đạo.
Ngoài ra, cần có cơ chế tài chính ổn định, như ngân sách riêng dành cho tổ chuyên gia kỹ thuật và các hoạt động đánh giá, lập kế hoạch, truyền thông, kiểm tra giám sát. Cơ chế làm việc nên duy trì thường xuyên, thay vì chỉ họp định kỳ và nên có một Phó trưởng Ban thường trực ở cấp lãnh đạo cao điều hành công việc thường nhật.
4. Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân quốc gia - Bảo đảm an toàn - yêu cầu cấp bách:
Đối với dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, Việt Nam có thể phải thuê tư vấn quốc tế thẩm định an toàn phê duyệt địa điểm, phê duyệt thiết kế, giám sát xây dựng… kết hợp đào tạo - bồi dưỡng phát triển nhân lực pháp quy hạt nhân cho Việt Nam trong ngắn hạn, trong khi hợp tác dài hạn với cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia chuyển giao công nghệ, chuẩn bị giám sát nhiều giai đoạn trong vòng đời của nhà máy điện hạt nhân. Theo kinh nghiệm vận hành an toàn Lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Việt Nam có thể có đủ nhân lực tự vận hành an toàn nhà máy điện hạt nhân, cũng như nhân lực pháp quy sau một số năm mà Việt Nam đã sở hữu nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Tuy nhiên, cần lưu ý tính cấp bách khắc phục sự thiếu hụt nhân lực pháp quy ngay trong ngắn hạn và trung hạn.
Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân cần có quan điểm, định hướng rõ trong việc hợp tác với các đối tác để sớm nâng cao năng lực của chính mình và của tổ chức hỗ trợ kỹ thuật. Việc hợp tác với cơ quan pháp quy quốc gia đối tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân có thể chỉ về đào tạo phát triển nhân lực, tiếp nhận chuyển giao các công cụ tính toán thẩm định, các phương tiện quan trắc, giám sát an toàn, cung cấp kiến thức và hỗ trợ để Việt Nam hiểu và áp dụng các tiêu chuẩn, quy định an toàn hạt nhân của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và các tổ chức quốc tế liên quan - có nghĩa là các hoạt động có liên quan gián tiếp đến thẩm định an toàn. Còn các hoạt động trực tiếp liên quan đến thẩm định, cần hợp tác với bên thứ ba như thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, phương án hợp tác pháp quy hạt nhân đồng thời với cơ quan pháp quy quốc gia đối tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân và với bên thứ ba là cách làm tối ưu, thuận lợi cho Việt Nam để tăng cường năng lực của cơ quan pháp quy và tổ chức hỗ trợ kỹ thuật. Nguyên nhân là bởi Việt Nam có chính sách hợp tác quốc tế đa phương, rộng mở; minh bạch trong chính sách phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử nói chung và phát triển điện hạt nhân nói riêng; đã thực hiện tốt quy định của các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, áp dụng hài hòa quy định và hướng dẫn của IAEA, kinh nghiệm của cơ quan pháp quy hạt nhân các quốc gia có điện hạt nhân phát triển. Điều quan trọng là Việt Nam có nhiều chục năm chuẩn bị về nhận thức và con người cho hợp tác quốc tế về hạt nhân và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng hạt nhân trên thế giới.
5. Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật - Trụ cột của năng lực khoa học, công nghệ:
Đề xuất phương án Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam xác định rõ chức năng của 3 đơn vị trực thuộc có đủ năng lực hoạt động độc lập trong 3 lĩnh vực: (i) Nghiên cứu phát triển công nghệ điện hạt nhân; (ii) Hỗ trợ kỹ thuật cho cơ quan pháp quy hạt nhân; (iii) Hỗ trợ kỹ thuật cho tổ chức vận hành.
Hiện nay, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam có các đơn vị trực thuộc khá mạnh về năng lực khoa học, công nghệ hạt nhân, về đào tạo và đánh giá chất lượng công trình xây dựng. Viện có dự kiến tổ chức đơn vị phân tích rủi ro ở Hà Nội, tăng cường năng lực thiết kế nhà máy điện hạt nhân nhỏ, cùng với triển khai dự án Lò phản ứng nghiên cứu mới ở Đồng Nai. Đây là những nền tảng rất quan trọng để Viện cơ cấu lại nhân lực, quản trị và thực hiện nhiệm vụ thuộc các lĩnh vực hỗ trợ kỹ thuật theo nguyên tắc “độc lập”. Đồng thời, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam có điều kiện kết nối với các viện nghiên cứu, trường đại học, hình thành mạng lưới các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật cho cơ quan pháp quy và cho tổ chức vận hành điện hạt nhân ở Việt Nam.
Những nhiệm vụ này, nếu có sự phối hợp đồng bộ, có thể thực hiện ngay trong ngắn hạn (1-2 năm) và trung hạn (3-5 năm). Tuy nhiên, về dài hạn (10 năm trở lên), cần có định hướng chỉ đạo và chính sách của Chính phủ và Bộ Khoa học và Công nghệ.
6. Chủ đầu tư - Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam:
Việt Nam cần tiến hành các công việc sau: (i) Đánh giá thực tế thời gian, chi phí xây dựng nhà máy điện hạt nhân dựa trên dữ liệu quốc tế; (ii) Đầu tư phát triển chuỗi cung ứng trong nước; (iii) Lựa chọn mô hình đầu tư phù hợp (PPP, BOT) với vai trò bảo lãnh của Nhà nước; (iv) Thúc đẩy minh bạch thông tin và đối thoại xã hội để tạo sự đồng thuận. Đây chính là cách tiếp cận tích hợp, giúp giảm thiểu rủi ro và nâng cao tính khả thi.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy: Chuẩn bị tốt là yếu tố then chốt đối với chủ đầu tư điện hạt nhân, đặc biệt với các nước mới bắt đầu, đòi hỏi thời gian 3 năm chuẩn bị trước khi ký hợp đồng (bao gồm cả thời gian thiết kế, xin cấp phép xây dựng, ký hợp đồng vốn, và ký hợp đồng gói thầu “chìa khóa trao tay”) và thêm 6-8 năm thi công (giai đoạn lắp đặt và xây dựng nhà máy chính); thời gian này có thể rút ngắn đối với những nước đã làm chủ công nghệ, hoặc có sự chỉ đạo quyết liệt bằng cơ chế và đồng lòng của người dân.
Như vậy, cần nhấn mạnh rằng: Sự chuẩn bị kỹ lưỡng về thủ tục và năng lực quản lý là yếu tố quyết định để tránh tình trạng kéo dài thời gian thi công, dẫn đến đội vốn và rủi ro dự án.
Đồng thời, Việt Nam cần tính tới thế mạnh riêng của EVN và PVN, có cơ chế phối hợp EVN - PVN theo mô hình phù hợp nhằm tận dụng tối đa năng lực song song (như EVN về quản lý hệ thống, PVN về công nghệ và chế tạo). Cụ thể hơn, ngoài vai trò là chủ đầu tư của hai dự án điện hạt nhân tương đối độc lập, kiến nghị:
- EVN nên đảm nhiệm vai trò quản lý tổng thể, đấu nối lưới điện và giám sát vận hành.
- PVN nên phụ trách các hạng mục chế tạo, xây dựng và R&D thiết bị - công nghệ.
Việc kết hợp hai tập đoàn quốc gia này có thể học tập theo kinh nghiệm quốc tế, như mô hình Rosatom - Rosenergoatom của Liên bang Nga, hoặc KEPCO - KHNP của Hàn Quốc. Sự kết hợp này sẽ giúp Việt Nam giảm rủi ro tiến độ - chi phí, tăng tính chủ động công nghệ, đồng thời tạo nền tảng cho phát triển chuỗi cung ứng hạt nhân nội địa.
Đồng thời, EVN và PVN nên phối hợp với các đối tác có liên quan phân tích các đặc điểm về công nghệ và tổ chức thi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cần bắt đầu từ việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn - quy chuẩn kỹ thuật, nâng cao năng lực pháp quy, đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu và từng bước triển khai thí điểm các công nghệ xây dựng tiên tiến trong các dự án công nghiệp tương tự.
Ngoài ra, EVN cần khẩn trương tổ chức rút ra những bài học chuẩn bị triển khai điện hạt nhân từ giai đoạn trước năm 2016, chia sẻ với PVN để thực hiện tốt hơn trong giai đoạn hiện nay.
7. Điện hạt nhân nhỏ - Tiềm năng, cơ hội và thách thức:
Song song quá trình làm chủ công nghệ điện hạt nhân, Việt Nam nên phát triển nhà máy điện hạt nhân nhỏ đầu tiên theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 - Cập nhật khung pháp lý, quy định để bao phủ mô hình nhà máy điện hạt nhân nhỏ; Phát triển Hệ sinh thái nhà máy điện hạt nhân nhỏ với một tổ chức nghiên cứu triển khai ở trung tâm của Hệ sinh thái, có đủ năng lực kết nối tất cả các bên có liên quan về nghiên cứu phát triển công nghệ, hợp tác quốc tế, lựa chọn đối tác, lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân nhỏ.
Giai đoạn 2 - Xác định chủ đầu tư tiềm năng, ký biên bản ghi nhớ với đối tác chiến lược để tiếp cận thiết kế chi tiết, ký kết chương trình thử nghiệm - đào tạo - chuyển giao từ các quốc gia tiên phong về công nghệ nhà máy điện hạt nhân nhỏ; Phát triển Trung tâm xây dựng nhà máy điện hạt nhân nhỏ tại địa điểm đã được phê duyệt, bao gồm các cơ sở chế tạo - thử nghiệm và quy hoạch vị trí xây dựng nhà máy điện hạt nhân tương lai, tận dụng thế mạnh của công nghệ mô-đun, chế tạo tại chỗ; Đào tạo lứa kỹ sư, kỹ thuật viên đầu tiên, phát triển nhân lực trình độ cao.
8. Chuyển đổi số - Hướng đi tất yếu trong quản trị an toàn và hiệu quả:
Chuyển đổi số là hướng đi tất yếu cho quản trị an toàn và hiệu quả trong xây dựng, vận hành nhà máy điện hạt nhân, đòi hỏi các bước như xây dựng nền tảng kỹ thuật - thể chế vững chắc, chuẩn bị và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng công nghệ tiên tiến trong thiết kế và thi công, tích hợp hệ thống thông minh để giám sát và kiểm soát, cũng như phát triển hệ thống pháp quy, quản lý chất thải phóng xạ, truyền thông minh bạch và nâng cao nhận thức cộng đồng để đảm bảo an toàn tuyệt đối và toàn diện. Kiến nghị Việt Nam có thể tham khảo và triển khai các bước cụ thể về chuyển đổi số trong quản trị lĩnh vực điện hạt nhân, như:
- Xây dựng lộ trình ba giai đoạn, bước đầu thí điểm tại một số cơ quan (2026), triển khai toàn ngành (2028) và tích hợp với các hệ thống quốc gia (2030).
- Ban hành thông tư kỹ thuật quy định chuẩn dữ liệu, định dạng, cách lưu trữ và quy trình cập nhật dữ liệu chuyên ngành năng lượng nguyên tử nói chung, trong đó có điện hạt nhân. Chuẩn bị hạ tầng pháp lý và nguồn lực cho các cơ quan quản lý nhà nước, đảm bảo khả năng thẩm định và giám sát hiệu quả các dự án.
- Trên cơ sở ưu tiên số hóa các mảng có dữ liệu sẵn có, bao gồm quản lý nguồn phóng xạ, giấy phép thiết bị, quan trắc môi trường, từng bước mở rộng sang dữ liệu thiết kế, vận hành và sự cố.
- Thiết lập cơ chế phân quyền rõ ràng giữa các đơn vị: Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân, tổ chức hỗ trợ kỹ thuật, doanh nghiệp sử dụng bức xạ và hạt nhân (đặc biệt là EVN, PVN) và các đơn vị công nghệ thông tin.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo và chuyển giao công nghệ, thông qua các dự án IAEA và mạng lưới ASEAN.
Tóm lại: Có thể nhận thấy rằng, phía trước là thách thức, nhưng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, sự chỉ đạo trực tiếp có hiệu quả của Thủ tướng Chính phủ, cùng với quyết tâm của các bộ, ngành, tỉnh Khánh Hòa, chủ đầu tư, nhà thầu và sự đồng thuận của người dân... chúng ta sẽ xây dựng thành công các nhà máy điện hạt nhân đầu tiên với tiến độ nhanh nhất có thể. Việc xây dựng thành công dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2, tuân thủ đầy đủ các quy định, cũng như đảm bảo các điều kiện theo thông lệ quốc tế sẽ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và lập thêm một kỳ tích trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của dân tộc. Cùng với đó, Việt Nam có thể vươn lên làm chủ công nghệ nhà máy điện hạt nhân nhỏ, mà cơ sở cho điều này là các dự án điện hạt nhân đầu tiên Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2 được xây dựng và vận hành an toàn, hiệu quả./.
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM