Điện gió có thể đóng góp trung hòa carbon cho Việt Nam vào năm 2050
07:10 | 10/01/2022
Con đường tiến tới trung hòa carbon - Thách thức với ngành Năng lượng Việt Nam Nhân dịp chào đón năm mới 2022, với cam kết mạnh mẽ của Thủ tướng Việt Nam tại Hội nghị quốc tế về Biến đổi khí hậu tháng 11/2021 (COP26), khi phấn đấu đưa nước ta tiến tới “phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam có vài nét bình luận về những thách thức, cơ hội và những điều cần làm sắp tới của ngành Năng lượng Việt Nam. Xin chia sẻ cùng quý bạn đọc. |
Thấy gì qua lộ trình toàn cầu về chuyển đổi năng lượng sạch vào năm 2030? Tại Hội nghị biến đổi khí hậu 2021 (COP26) vừa được tổ chức tại Anh, Liên Hợp quốc đã công bố lộ trình toàn cầu về chuyển đổi năng lượng sạch (NLS) vào năm 2030. Mục tiêu nhằm hướng tới phát thải ròng về 0 (Net Zero) vào năm 2050. |
Năng lượng rất nóng ở COP26 và thế kẹt của Việt Nam Mong ước tạo bước ngoặt của Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc (sau này trở thành Hiệp định Paris) về Biến đổi khí hậu COP26 tại Glasgow đã thành hiện thực một nửa vào đêm 13/11/2021. Một nửa còn lại được các đảo quốc và các nước đã phát triển coi là giấc mơ tan vỡ. Hiệp ước Glasgow về khí hậu là một văn kiện thỏa hiệp cân bằng giữa 197 nước tham gia. |
Xu hướng trung hòa carbon trên thế giới:
Tại Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu tháng 11/2021 về Biến đổi khí hậu COP26 tại Glasgow - Vương quốc Anh, đã thừa nhận mục tiêu 1,50C nóng lên toàn cầu là thích đáng. Mục tiêu 1,50C có vẻ gây nản lòng khi Trái Đất vốn đã nóng lên 1,10C, tăng đến 0,20C mỗi thập kỷ. Dù sao, mục tiêu 1,50C này nên được hiểu như một khái niệm nằm ở giao điểm giữa khoa học và chính sách. Việc giữ lựa chọn duy trì ở mức dưới 1,50C cho thấy các quốc gia tham gia Hiệp định đều đồng ý rằng vấn đề hiện tại không chỉ quan trọng mà còn khẩn cấp. Các quốc gia đã nhất trí trong Điều 28 của Hiệp ước Khí hậu Glasgow, văn bản chính do Hội nghị đề ra, để đưa ra các tham vọng lớn hơn vào thời điểm diễn ra hội nghị lần tiếp theo năm 2022, thay vì chờ đến năm 2025. Đây là một động thái chính trị nhằm vào 40 quốc gia đã không nộp đúng hạn bản cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), và những quốc gia dù nộp nhưng không tăng cường mức độ các tham vọng. Điều 32 Hiệp ước Khí hậu Glasgow kêu gọi các bên liên quan chuẩn bị các chiến lược chuyển đổi từ phát thải dài hạn nồng độ thấp khí sang phát thải ròng bằng 0 tại thời điểm trước hoặc khoảng giữa thế kỉ - và chiến lược này cần phải hoàn thiện vào tháng 11/2022.
Về vấn đề tài chính khí hậu, Điều 44 của Hiệp ước lưu ý rằng mục tiêu huy động 100 tỷ USD mỗi năm của các bên là nước phát triển vào năm 2020 đã không đạt được. Các bên nhất trí hoàn thành vào 2023. Hiệp ước yêu cầu các quốc gia phát triển tăng mạnh nguồn tài chính cho phù hợp tình hình, đồng thời xem xét gấp đôi kinh phí. Hội nghị Glasgow cũng là dịp để hoàn tất các cuộc đàm phán về cơ chế hợp tác quốc tế. Các thảo luận về Điều 6.2 trong Thỏa thuận Paris đặt ra các quy tắc nhằm tránh việc gian dối trong tính lượng phát thải khi liên kết vào Hệ thống Giao dịch Phát thải (Emission Trading Systems) hoặc thanh toán bù trừ trên thị trường carbon tự nguyện quốc tế, để không phải trả cho lượng phát thải quá mức cam kết của mình. Khung điều lệ trên vẫn có thể áp dụng dù còn thiếu sót cần cải thiện. Ví dụ, vẫn còn sự nhập nhằng trong kế toán giữa con số giảm phát thải mà các quốc gia hứa hẹn và cam kết của các công ty tư nhân có trụ sở tại các quốc gia này.
Trước khi diễn ra COP26, Uruguay, Na Uy cam kết phát thải ròng cacbon bằng 0 vào năm 2030, Phần Lan năm 2035, Áo năm 2040, Thụy Điển năm 2045, các nước EU, UK, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, UAE năm 2050 và Arabia Saudi, Trung Quốc, Indonesia vào năm 2060. Ấn Độ phát thải ròng bằng 0 vào năm 2070.
Việt Nam và trung hòa carbon:
Ngày 1/11/2021, tại Glasgow, Thủ tướng Phạm Minh Chính có tuyên bố làm nên lịch sử: Việt Nam sẽ đạt mức phát thải ròng khí nhà kính bằng 0 vào năm 2050. Ta hãy bàn luận về những hệ quả ẩn sau tuyên bố này, đi cùng cam kết dừng xây dựng nhà máy nhiệt điện than mới không có công nghệ giảm nhẹ và giảm phát thải khí metan. Đầu tiên, ta cần xem xét tác động của Hiệp định Khí hậu Liên Chính phủ đến Việt Nam trước khi thảo luận về hệ quả của những tuyên bố, phát biểu và những cam kết được đưa ra tại Hội nghị COP26.
Việt Nam đã đặt mục tiêu hướng tới phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050. Đây là một bước ngoặt, một sự tái định hướng có ảnh hưởng sâu rộng đối với xã hội phù hợp với tinh thần của thời đại.
Việt Nam đã ký Tuyên bố chuyển đổi năng lượng than đá sang năng lượng sạch toàn cầu, cam kết chuyển đổi để dừng sản xuất điện than không có công nghệ lọc CO2 trong những năm 2040 (hoặc sớm nhất có thể sau đó), và ngừng cấp giấy phép mới cho các dự án nhiệt điện than không có công nghệ lọc CO2 mà chưa hoàn tất quá trình phê duyệt tài chính, cũng như kết thúc các chính sách mới hỗ trợ trực tiếp của chính phủ cho ngành công nghiệp nhiệt điện than quốc tế không qua công nghệ lọc CO2. Đồng ký kết với Việt Nam gồm có Hàn Quốc và các nước ASEAN như Philippines, Singapore, Indonesia và Brunei. Bốn quốc gia tiêu thụ nhiều than đá nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ và Nhật Bản đã không tham gia ký kết.
Đề xuất giải pháp phát triển điện gió - trung hòa carbon ngành năng lượng:
Theo tính toán của ông Kadelas, 2017 (bảng 1 và hình 1) thì điện gió có mức phát thải cacbon thấp nhất so với các nguồn điện khác như than, dầu, khí, hạt nhân, thủy điện, điện mặt trời, điện gió trên bờ -9 g/kWh, điện gió ngoài khơi -16 g/kWh, trong khí đó điện than là 1050 g/kWh, gấp gần 100 lần so với điện gió.
Tiềm năng kỹ thuật điện gió của Việt Nam là rất lớn có thể đạt trên 500 GW (trên đất liền là 42 GW, điện gió ngoài khơi của Việt Nam là 475 GW ở các vùng biển cách bờ tới 200 km), theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới.
Bảng 1. Phát thải cacbon từ các nguồn điện:
Thứ tự | Các nguồn điện | Phát thải carbon (g/kWh) |
1 | Điện gió trên bờ | 9 |
2 | Điện gió ngoài khơi | 16 |
3 | Thủy điện | 28 |
4 | Điện hạt nhân | 33 |
5 | Điện mặt trời | 75 |
6 | Điện khí | 450 |
7 | Điện dầu | 840 |
8 | Điện than | 1050 |
Hình 1. Sơ đồ phát thải carbon dioxit theo nguồn điện:
Hiện nay đến cuối tháng 10 năm 2021 trong hệ thống điện quốc gia đã có tổng cộng 84 nhà máy điện gió với tổng công suất 3980,27 MW mới được công nhận vận hành thương mại (COD). Đến cuối năm 2021 có tổng công suất trên 4.100 MW điện gió, giúp giảm thiểu hàng triệu tấn carbon.
Đồng thời còn 36 nhà máy chưa kịp vận hành thương mại kịp hạn cơ chế FIT 2 (ngày 30-10-2021).
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Đặng Hoàng An phát biểu trực tuyến tại hội nghị “Phát triển điện gió ngoài khơi, vì tương lai năng lượng sạch của Việt Nam” do Ban Kinh tế T.Ư cùng Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) tổ chức ngày 16/12/2021 đã xác nhận các tỉnh ven biển đăng ký điện gió ngoài khơi là 110 GW, trong khí dự thảo QHĐ VIII đang xin ý kiến 5 GW đến 2030 và 41 GW đến năm 2045.
Trong báo cáo “Lộ trình phát triển điện gió ngoài khơi cho Việt Nam” do WB công bố 12/6/2021 thì Việt Nam có thể trở thành một quốc gia có ngành điện gió ngoài khơi với kịch bản cao 70 GW đến 2050 thành công với giá thành sản xuất điện thấp, giảm thiểu hàng tỷ tấn cacbon, nội địa hóa đến 70%, công suất điện có thể đạt 35% trong hệ thống điện của Việt Nam.
Với nguồn năng lượng tái tạo điện gió trên bờ và ngoài khơi rất lớn lên đến hơn 500 GW, và cam kết phát thải carbon trung hòa 2050, cùng với sự phát triển thành một trung tâm điện gió ngoài khơi của Thế giới, nguồn năng lượng điện gió siêu nhỏ cacbon, chúng ta cần gấp rút bổ sung các dự án điện gió trên bờ và trên biển vào trong Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030 tầm nhìn đến 2050 và Quy hoạch điện VIII.
Với tầm nhìn dài hạn phát triển hàng trăm GW cho điện gió, giúp giảm thiểu hàng triệu tấn carbon từ nhiệt điện, chúng ta có thể hiện thực hóa giảm carbon ngành năng lượng nói riêng, trung hòa carbon nói chung đến 2050 và tạo nền móng phát triển ngành công nghiệp điện gió, đặc biệt điện gió ngoài khơi, tại ra sức mạnh mềm, sức mạnh xanh cho quốc gia./.
DƯ VĂN TOÁN