Thực trạng triển khai kế hoạch thực hiện cam kết Net zero của Việt Nam và các kiến nghị
14:12 | 07/08/2024
Góc nhìn khác về chuyển đổi năng lượng công bằng ở Nam Phi, Indonesia, Việt Nam Từ sau COP26, hợp tác Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) đang được ca ngợi như phương pháp nước giàu cấp tài chính cho các nước nghèo để thoát khỏi nhiên liệu hóa thạch. Nhưng TS. Sean Sweeney của Đại học Thành phố New York [*] lại có góc nhìn khác về thỏa thuận này. (Lược dịch của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam). |
Lộ trình Net zero của Việt Nam - Nghiên cứu và khuyến nghị từ quốc tế McKinsey - một trong ba công ty tư vấn chiến lược lớn nhất thế giới (Big Three) của Hoa Kỳ vừa cập nhật báo cáo tựa đề “Hoạch định lộ trình hoàn thành mục tiêu phát thải Net zero cho Việt Nam” (Charting a path for Vietnam to achieve its Net-zero goals). Tạp chí Năng lượng Việt Nam tóm tắt các nghiên cứu và khuyến cáo chính của McKinsey liên quan đến lĩnh vực năng lượng để bạn đọc tham khảo. |
I. Mở đầu:
Hiện nay, biến đổi khí hậu và những hệ lụy của nó trở thành một thách thức nghiêm trọng. Trong những năm gần đây, thế giới đang phải đối mặt với thực trạng biến đổi khí hậu ngày càng đáng lo ngại, các tác động kéo theo ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng chưa từng thấy trong hàng thập kỷ. Biến đổi khí hậu với những biểu hiện bất thường của thời tiết cực đoan diễn ra tại nhiều quốc gia, tác động mạnh mẽ mang tính xuyên vùng, xuyên quốc gia, gây ảnh hưởng diện rộng trực tiếp đến hệ sinh thái, tài nguyên môi trường và cuộc sống của cộng đồng dân cư toàn cầu.
Một trong những tác động lớn, rõ rệt nhất của biến đổi khí hậu là sự thay đổi về thời tiết và môi trường. Các hiện tượng như tăng nhiệt độ trung bình, hiện tượng thiên nhiên cực đoan (như bão lũ, lụt lội, hạn hán) trở nên phổ biến hơn, tạo ra thách thức đối với nông nghiệp, nguồn nước và đời sống hàng ngày của cộng đồng. Nước biển dâng cao, cùng với sự tan chảy của tuyết, băng ở các khu vực cực đới đang dẫn đến sự thay đổi cấu trúc đất đai và mức độ nước biển, ảnh hưởng lớn đến sinh quyển, đa dạng sinh học. Biến đổi khí hậu khiến những nhóm người dễ bị tổn thương dễ trở thành nạn nhân, làm thay đổi cấu trúc gien của các vi-rút bệnh truyền nhiễm và tác động đến vấn đề an ninh lương thực, nước sạch, không khí trong lành.
Đại dịch Covid-19 và những biến thể của vi-rút corona mới đây càng củng cố thêm những cảnh báo từ lâu về nguy cơ vi-rút bệnh truyền nhiễm do tác động của biến đổi khí hậu, đe dọa đến hòa bình và an ninh trên toàn thế giới.
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động và dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu [1]. Với dải ven biển có chiều dài 3.260 km và các vùng biển, hải đảo, Việt Nam là vùng sẽ đối diện với nhiều rủi ro và tác động tiềm tàng nhiều nhất liên quan đến biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Rủi ro sẽ ngày càng gia tăng đối với các vùng đồng bằng và ven biển, đặc biệt là các đô thị ven biển. Với mật độ dân cư cao, quy hoạch đô thị/không gian chưa tính đến biến đổi khí hậu và vùng tập trung nhiều tài sản, công trình hạ tầng, cũng như các nhóm dân cư dễ bị tổn thất.
Nhận thức về tình trạng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và tầm ảnh hưởng lớn tới Việt Nam, Chính phủ đã đặt mức quan tâm cao và tiến hành các biện pháp ứng phó một cách quyết liệt. Chính sự chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các bộ, ngành và địa phương đã tạo nên một bức tranh toàn diện về công tác ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
II. Thực trạng triển khai kế hoạch thực hiện cam kết Net zero 2050 tại Việt Nam:
1. Những thành tựu đạt được:
Là một trong những nước dễ bị tổn thương, chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt và đặt vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu là ưu tiên trong phát triển kinh tế, xã hội, chủ động, tích cực trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam là quyết tâm ứng phó với biến đổi khí hậu và xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế quan trọng, đóng góp vào các quá trình đàm phán quốc tế về khí hậu, luôn thể hiện là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Việt Nam đã sớm tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), Nghị định thư Kyoto, Thoả thuận Paris. Những nỗ lực này đã được công nhận và đánh giá cao tại các diễn đàn quốc tế.
Tại COP26, Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, góp phần cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với biến đổi khí hậu. Bên cạnh cam kết về phát thải ròng bằng “0”, Việt Nam cùng với hơn 100 quốc gia tham gia Tuyên bố Glassgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất; cùng 48 quốc gia tham gia Tuyên bố Toàn cầu về Chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; cùng 150 quốc gia tham gia Liên minh hành động 2 thích ứng an toàn.
Chúng ta cũng đã tham gia Sáng kiến cộng đồng châu Á phát thải ròng bằng “0” do Nhật Bản khởi xướng và hợp tác với nhiều đối tác quốc tế để triển khai các cam kết của của Việt Nam. Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) cũng đã được Việt Nam và các thành viên IPG thông qua trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao kỷ niệm 45 năm quan hệ ASEAN - EU (tại Brúc-xen, Vương quốc Bỉ).
Các nước trên thế giới đánh giá cao các cam kết trong xử lý, ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam. Nhiều đối tác quốc tế, như Anh, Mỹ và EU nói riêng, cũng như Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) nói chung đều đánh giá Việt Nam đã nhanh chóng triển khai các biện pháp và kế hoạch để biến cam kết thành hành động, thể hiện là một quốc gia tích cực, chủ động, có trách nhiệm trong thực hiện các cam kết quốc tế.
Ngay sau COP26, Việt Nam đã triển khai các công việc liên quan để thực hiện các cam kết. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định thành lập Ban chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26, Chiến lược quốc gia biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC)…
NDC cập nhật năm 2022 đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện và khẳng định quyết tâm của Việt Nam về chuyển đổi năng lượng, đẩy mạnh giảm phát thải trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực (bao gồm mục tiêu giảm phát thải đối với từng lĩnh vực và thích ứng với biến đổi khí hậu).
Theo đó, Việt Nam đặt mục tiêu giảm 43,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với kịch bản phát thải thông thường (khi có sự hỗ trợ từ quốc tế), tăng vượt bậc so với mức 27% cam kết tại NDC năm 2020.
Tại các địa phương, nhiều hoạt động triển khai các quy định về biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược, kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu đã được thực hiện tích cực:
- Kêu gọi đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời, điện gió trên địa bàn.
- Quản lý, bảo vệ rừng, xây dựng đề án thí điểm trao đổi tín chỉ các-bon rừng.
- Tổ chức triển khai, quán triệt về các cam kết của Việt Nam tại COP26.
- Tuyên truyền các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sử dụng các nguồn năng lượng xanh.
- Đôn đốc, hướng dẫn các cơ sở trên địa bàn thuộc đối tượng phải kiểm kê khí nhà kính.
Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước và tư nhân đã có nhận thức rõ ràng về các lợi ích chiến lược trong việc tham gia thực hiện cam kết của Việt Nam về biến đổi khí hậu. Khối doanh nghiệp, các tập đoàn, tổng công ty lớn đã chủ động nghiên cứu, triển khai nhiều biện pháp giảm dần các nguồn năng lượng hóa thạch, xây dựng kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính; đồng hành cùng các bộ, ngành triển khai trên diện rộng các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu. Cộng đồng doanh nghiệp đã thể hiện là một chủ thể hạt nhân, nòng cốt, tinh thần xung kích trong việc thực thi các cam kết của Việt Nam về biến đổi khí hậu và đạt được kết quả tích cực trong cắt giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi sang sử dụng nguồn năng lượng xanh, năng lượng tái tạo và hấp thụ khí nhà kính trong các hoạt động sản xuất.
Phát triển năng lượng tái tạo đang dần trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển ngành năng lượng toàn cầu và chiếm vị trí quan trọng trong phát triển bền vững ở các nền kinh tế trên thế giới. Đi theo xu thế tất yếu trên thế giới hiện nay, phát triển năng lượng tái tạo cũng là một trong những lĩnh vực được ưu tiên đầu tư tại Việt Nam và đã đạt được những điểm nhấn tự hào [2].
Tận dụng lợi thế tự nhiên đầy tiềm năng để đầu tư các nguồn năng lượng tái tạo (như điện gió, mặt trời, sinh khối, sóng biển, khí sinh học biogas…) Việt Nam xếp hạng thứ 31 trong danh sách các quốc gia thu hút mạnh mẽ các cơ hội đầu tư và triển khai trong lĩnh vực năng lượng tái tạo [3].
Tại các tỉnh ven biển miền Trung, miền Nam, các dự án khai thác điện gió, mặt trời ngày càng phát triển mạnh mẽ. Năm 2021, ngành năng lượng gió tăng trưởng vượt bậc, với 24 nhà máy điện gió tổng công suất 963 MW đi vào vận hành tính đến cuối tháng 8/2021. Về phát triển năng lượng mặt trời, hơn 330 dự án trình Chính phủ phê duyệt, bổ sung vào Quy hoạch điện chỉ trong vòng hơn một năm (từ năm 2018 đến tháng 6/2019) [4].
Những năm gần đây, tỷ trọng điện gió, mặt trời tăng nhanh chóng (từ gần 0% năm 2018 lên 21% đối với điện mặt trời và 5% đối với điện gió vào năm 2022) [5].
2. Những thách thức:
Chuyển đổi xanh và giảm phát thải khí nhà kính nhằm thực hiện cam kết trung hòa các-bon là một chặng đường dài với nhiều khó khăn, thử thách. Trong đó, một trong những thách thức lớn nhất là nguồn lực tài chính. Theo Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển của Ngân hàng Thế giới: Dự kiến đến năm 2040, Việt Nam cần đầu tư khoảng 368 tỷ USD vào cơ sở hạ tầng, công nghệ mới và các chương trình xã hội để đảm bảo chuyển dịch công bằng hướng tới nền kinh tế phát thải ròng bằng “0” và có khả năng chống chịu với khí hậu [6].
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực phục vụ cho các dự án năng lượng tái tạo, chuyển dịch năng lượng, phát triển xanh còn hạn chế. Điều này dẫn đến gây khó khăn cho việc mở rộng quy mô và tăng hiệu quả của các dự án này. Nhiều người lao động hiện tại phải đối mặt với tình trạng mất việc làm do quá trình chuyển đổi sẽ khó đào tạo để đáp ứng yêu cầu kỹ năng cao trong chuỗi giá trị năng lượng tái tạo, đặc biệt là những người lao động lớn tuổi có tay nghề thấp. Do đó, quá trình chuyển đổi việc làm phải diễn ra nhanh chóng, với nỗ lực lớn trong đào tạo ở trình độ dạy nghề và cao đẳng để người lao động có thể hưởng lợi từ các cơ hội việc làm mới.
Ngoài ra, trình độ công nghệ của Việt Nam còn khá hạn chế so với thế giới. Nhu cầu của nước ta về nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ về giảm phát thải khí nhà kính, giám sát biến đổi khí hậu, quan trắc, dự báo khí tượng thủy văn, cảnh báo sớm thiên tai, hiểm họa, chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí là rất lớn.
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu về cơ bản tuy đã được xây dựng, nhưng vẫn cần hoàn thiện, bổ sung - do đây là lĩnh vực mới, trải nghiệm thực tiễn trong xây dựng, thực thi chính sách chưa nhiều. Vẫn còn thiếu các cơ chế, chính sách cụ thể để thu hút, khuyến khích sự tham gia và tiếp cận nguồn vốn tính dụng ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu.
III. Kiến nghị:
Trong bối cảnh tiềm lực của nền kinh tế chưa đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu, thực hiện phát triển xanh, chuyển dịch năng lượng đòi hỏi nguồn lực rất lớn cả về tài chính, cơ sở hạ tầng và nhân lực, dẫn tới gây ảnh hưởng không nhỏ việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Để giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn lực cho tăng trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, bên cạnh việc phát huy nội lực, huy động nguồn lực, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước, Việt Nam cần tăng cường hợp tác, hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh đó, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho quá trình thực hiện đưa phát thải ròng về “0”, cần đẩy mạnh bồi dưỡng, nâng cao chất lượng người lao động. Việc nâng cao năng lực nguồn nhân lực vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội vừa đảm bảo ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ cấp thiết trong bối cảnh đề cao phát triển bền vững ngày nay.
Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế, liên kết đào tạo ở trong và ngoài nước; xây dựng và triển khai các chương trình tập huấn, bồi dưỡng về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Mặt khác, phát triển đội ngũ chuyên gia về kiểm kê khí nhà kính, phát triển thị trường các-bon và bảo vệ tầng ô-dôn.
Chính phủ cần tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng và các công nghệ mới phục vụ các bộ, ngành, địa phương triển khai các nhiệm vụ, giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm hướng tới mục tiêu trung hòa các-bon. Tổ chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ưu tiên tập trung vào công nghệ mới, hiện đại trong chuyển đổi sản xuất năng lượng sạch, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả cần được đẩy mạnh. Việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ sạch cũng là một hướng đi cần được đẩy mạnh.
Bên cạnh huy động vốn, đầu tư vào công nghệ, nhân lực, Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậu, các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia phù hợp với mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giai đoạn 2021-2030 cần được theo dõi tiến độ, rà soát, sửa đổi, bổ sung sao cho đảm bảo đạt được các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Mức độ nhận thức và tham gia của cộng đồng trong việc thực hiện các biện pháp giảm phát thải vẫn còn chưa cao, cần có sự tăng cường về giáo dục và truyền thông. Chính phủ cần tăng cường các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia về biến đổi khí hậu, cũng như các biện pháp giảm phát thải cho cộng đồng. Các chương trình giáo dục cần được tích hợp vào hệ thống giáo dục quốc gia, đồng thời các chiến dịch truyền thông cần được triển khai rộng rãi để nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động.
Ngoài ra, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tích cực tham gia, đóng góp vào các diễn đàn, tổ chức quốc tế về biến đổi khí hậu để học hỏi kinh nghiệm. Cùng với đó là tích cực đàm phán xây dựng các quan hệ đối tác để thu hút nguồn lực, hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật từ các quốc gia và tổ chức quốc tế cho để thực hiện các cam kết về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Sự chủ động tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là khối tư nhân, cũng như người tiêu dùng cũng sẽ thúc đẩy tạo ra làn sóng phát triển kinh tế xanh và xây dựng nền tảng bền vững cho tăng trưởng xanh. Vì vậy, Chính phủ và địa phương cần có cơ chế, chính sách đổi mới, sáng tạo mang tính đột phá để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh, gia tăng nhận thức cộng đồng về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
IV. Kết luận:
Những cam kết, hành động khí hậu đều là những nỗ lực của Việt Nam hướng tới đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng sạch, tái tạo không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững, nắm bắt thời cơ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và tận dụng các cơ hội hợp tác thương mại, đầu tư cho phát triển.
Nhận thức được năng lượng tái tạo đóng vai trò quan trọng để tiến tới hiện thực hóa cam kết đưa mức phát thải ròng về “0”, nước ta đã và đang thực hiện quá trình đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng theo hướng giảm dần nguồn điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch, ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng sạch, bền vững, giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Mặt khác, tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo.
Trong thời gian qua, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu đã bước đầu đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước xu thế biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến theo hướng nhanh hơn, tác động mạnh hơn, Việt Nam cần tiếp tục đặt thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện mục tiêu trung hòa các-bon ở vị trí ưu tiên. Tăng cường chú trọng vào hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách khí hậu. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế huy động nguồn tài chính, kêu gọi hỗ trợ năng cao năng lực và chuyển giao công nghệ, đặc biệt các công nghệ sạch, mới. Tăng cường giáo dục, truyền thông, nâng cao nhận thức, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào công cuộc ứng phó với biến đổi khí hậu./.
CỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG)
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022). Báo cáo Kế hoạch quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
[2] Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
[3] https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/906102/view_content
[4] https://tapchitaichinh.vn/nang-luong-tai-tao-o-viet-nam-nhung-diem-nhan-tu-hao.html
[5] Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo & Cục Năng lượng Đan Mạch (2024). Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam – Đường đến phát thải ròng bằng không.
[6] Ngân hàng Thế giới (2022). Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển của Ngân hàng Thế giới.