RSS Feed for Tác động thuế quan đối ứng đến ngành năng lượng, khuyến nghị cho Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ bảy 19/04/2025 17:05
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Tác động thuế quan đối ứng đến ngành năng lượng, khuyến nghị cho Việt Nam

 - Việc Hoa Kỳ tăng thuế nhập khẩu với hàng hóa từ Việt Nam trong năm 2025 đã tạo ra một cú sốc lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Sự phụ thuộc đáng kể vào thị trường Hoa Kỳ (với kim ngạch xuất khẩu chiếm gần 30% GDP) khiến tác động từ chính sách thuế quan này lan rộng ra nhiều lĩnh vực, trong đó có ngành năng lượng. Trong bài viết dưới đây, chuyên gia PECC2 và Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổng hợp, phân tích các ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn của chính sách thuế quan mới, đồng thời nhận diện một số cơ hội chiến lược mà chúng ta có thể tận dụng để phát triển ngành năng lượng một cách bền vững.
Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 - Chính phủ xem xét giải pháp đề xuất của chuyên gia Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 - Chính phủ xem xét giải pháp đề xuất của chuyên gia

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn, Văn phòng Chính phủ vừa có Văn bản số: 2862/VPCP-CN gửi các bộ: Công Thương, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Môi trường - theo chức năng, nhiệm vụ được giao, nghiên cứu và có ý kiến về báo cáo kiến nghị của Tạp chí Năng lượng Việt Nam về thúc đẩy tiến độ, đảm bảo hiệu quả đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2, gửi Bộ Công Thương tổng hợp. Nội dung tổng hợp bao gồm các đề xuất (nếu có), báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Đôi nét về thuế đối ứng:

Thuế quan đối ứng (Reciprocal Tariff), hay Thuế quan qua lại (gọi ngắn RT) - là thuế, hoặc hạn chế thương mại mà một quốc gia áp dụng cho quốc gia khác để đáp trả các hành động tương tự do quốc gia đó thực hiện. Ý tưởng đằng sau thuế RT là tạo ra sự cân bằng trong thương mại giữa các quốc gia. Nếu một quốc gia tăng thuế đối với hàng hóa từ quốc gia khác, quốc gia bị ảnh hưởng có thể phản ứng bằng cách áp dụng thuế RT của riêng mình đối với hàng nhập khẩu từ quốc gia tăng thuế. Phản ứng này nhằm bảo vệ các doanh nghiệp địa phương, duy trì việc làm và khắc phục tình trạng mất cân bằng thương mại.

Thuế RT có thể dẫn đến sự gia tăng qua lại các rào cản thương mại, dẫn đến chiến tranh thương mại với những tác động tiêu cực cho cả hai nền kinh tế. Ví dụ, làm gián đoạn chuỗi cung ứng, tăng giá cho người tiêu dùng và làm chậm tăng trưởng kinh tế. Điều quan trọng là các quốc gia phải giao tiếp cởi mở và hợp tác để giải quyết các vấn đề thương mại thay vì chuyển sang áp dụng thuế RT.

Thuế quan qua lại có thể thúc đẩy các cuộc thảo luận giữa các quốc gia, nhằm hạ mức thuế chung và cải thiện các điều kiện thương mại. Tuy nhiên, chúng cũng có thể dẫn đến chiến tranh thương mại nếu các quốc gia tiếp tục trả đũa nhau. Về kinh tế, mặc dù thuế RT có thể giúp các ngành công nghiệp địa phương trong ngắn hạn, nhưng chúng có thể khiến giá cả tăng cao hơn cho người tiêu dùng và ít lựa chọn hơn trên thị trường. Chúng cũng có thể tạo ra căng thẳng giữa các đối tác thương mại và làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu.

Khái niệm về chính sách thuế RT xuất hiện từ thế kỷ 19 - khi các quốc gia bắt đầu sử dụng thuế quan để bảo vệ các ngành công nghiệp địa phương và thúc đẩy phát triển kinh tế. Thuế RT, hay các hiệp định thương mại qua lại, liên quan đến các quốc gia đồng ý giảm, hoặc xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa theo cách có đi có lại.

Một ví dụ đáng chú ý ban đầu là Hiệp ước Cobden-Chevalier năm 1860 giữa Anh và Pháp. Hiệp ước này đã cắt giảm đáng kể thuế quan giữa hai quốc gia, tăng cường hợp tác thương mại và kinh tế. Vào đầu thế kỷ 20, các chính sách thuế RT trở nên nổi bật hơn với Đạo luật Thuế quan Smoot-Hawley tại Hoa Kỳ năm 1930. Đạo luật này đã tăng thuế đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu, thúc đẩy các quốc gia khác trả đũa bằng thuế quan của riêng họ, làm trầm trọng thêm cuộc Đại suy thoái.

Sau Thế chiến II, các chính sách thuế quan qua lại đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) được ký kết vào năm 1947 để giảm thuế quan và khuyến khích thương mại tự do thông qua các hiệp định qua lại.

Gần đây, chính sách thuế quan có đi có lại đã gây ra các cuộc tranh luận trong thương mại toàn cầu. Ví dụ, chính quyền Tổng thống Trump đã áp thuế đối với hàng nhập khẩu từ các đối tác thương mại lớn như Trung Quốc, với lý do là các hoạt động thương mại không công bằng và cần phải bảo vệ các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ. Để trả đũa, các quốc gia này đã ban hành thuế quan của riêng họ, dẫn đến căng thẳng thương mại gia tăng.

Trước đây, thuế quan (thuế xuất - nhập khẩu) là nguồn thu nhập chính của chính phủ cho đến cuối những năm 1800 khi các phương pháp đánh thuế khác trở nên phổ biến hơn. Ngày nay, thuế quan chủ yếu đóng vai trò là biện pháp bảo hộ, hoặc công cụ đàm phán và vai trò của chúng trong doanh thu của chính phủ đã giảm đáng kể.

Tóm lại, thuế quan qua lại, hay RT là nhằm mục đích thúc đẩy sự công bằng trong thương mại quốc tế bằng cách cân bằng mức thuế nhập khẩu do các đối tác thương mại đặt ra, nỗ lực tạo ra môi trường thương mại công bằng hơn.

Những điểm chính liên quan đến thuế RT:

1. Cân bằng các mối quan hệ thương mại:

Thuế quan RT nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động thương mại công bằng bằng cách đảm bảo rằng: Các quốc gia không phải đối mặt với những lợi thế, hoặc những bất lợi không công bằng về thuế quan áp dụng cho hàng hóa của họ tại các thị trường khác nhau.

2. Công cụ đàm phán:

Thuế quan qua lại có thể được sử dụng như một công cụ đàm phán trong các tranh chấp thương mại, hoặc để khuyến khích các quốc gia khác giảm, hoặc xóa bỏ thuế quan đối với hàng xuất khẩu của quốc gia đó.

3. Tác động đến các ngành công nghiệp trong nước:

Thuế RT có thể bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước bằng cách làm cho hàng hóa nhập khẩu kém cạnh tranh hơn trên thị trường địa phương.

4. Quan hệ quốc tế:

Việc áp dụng thuế RT có thể gây căng thẳng cho quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia, có khả năng dẫn đến chiến tranh thương mại, hoặc các biện pháp trả đũa.

5. Tác động đến người tiêu dùng:

Thuế quan qua lại có thể dẫn đến giá tăng đối với một số hàng hóa nhập khẩu, có thể tác động đến người tiêu dùng bằng cách giảm sự lựa chọn, hoặc dẫn đến chi phí cao hơn.

Các trường hợp mới nhất về thuế RT:

1. Hoa Kỳ và Trung Quốc:

Một ví dụ chính về thuế quan RT đã xảy ra chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc leo thang vào năm 2018. Hoa Kỳ áp thuế đối với nhiều sản phẩm của Trung Quốc, với lý do là các hoạt động thương mại không công bằng và đánh cắp sở hữu trí tuệ. Để đáp trả, Trung Quốc áp thuế đối với hàng hóa của Mỹ, bao gồm các mặt hàng nông sản như đậu nành và thịt lợn. Chu kỳ thuế quan này làm tăng chi phí cho người tiêu dùng và doanh nghiệp ở cả hai quốc gia. Và hiện nay Nhà Trắng thông báo chính thức áp thuế 104% đối với hàng Trung Quốc từ ngày 9/4/2025 sau khi Bắc Kinh từ chối dỡ bỏ các biện pháp trả đũa thuế quan.

2. Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu:

Một trường hợp quan trọng khác liên quan đến Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu (EU). Năm 2018, sau khi Hoa Kỳ áp thuế đối với thép và nhôm, EU đã trả đũa bằng thuế đối với hàng hóa của Mỹ, nhắm vào các mặt hàng như rượu whisky bourbon, xe máy và các sản phẩm nông nghiệp. Trường hợp này minh họa cách thuế RT có thể tạo ra căng thẳng kinh tế giữa các đối tác thương mại lớn.

3. Canada và Hoa Kỳ:

Mối quan hệ Canada - Hoa Kỳ cũng được thể hiện qua ​thuế RT. Sau khi Hoa Kỳ áp thuế đối với thép và nhôm của Canada vào năm 2018, Canada đã đáp trả bằng thuế quan đối với nhiều sản phẩm của Hoa Kỳ, bao gồm tương cà, rượu whisky và các mặt hàng tiêu dùng khác. Ví dụ này cho thấy ngay cả những đồng minh thân cận cũng có thể tham gia vào các hành động thuế quan có đi có lại khi phải đối mặt với các biện pháp thương mại đơn phương.

4. Thuế quan của Ấn Độ đối với các sản phẩm của Hoa Kỳ:

Ấn Độ đã thực hiện các hành động thuế RT đối với Hoa Kỳ. Sau khi Hoa Kỳ tăng thuế đối với thép và nhôm nhập khẩu từ Ấn Độ, Ấn Độ đã đáp trả bằng cách tăng thuế đối với một số mặt hàng của Hoa Kỳ, bao gồm hạnh nhân, táo và một số mặt hàng điện tử. Điều này cho thấy các nước đang phát triển có thể phản ứng như thế nào với các chính sách bảo hộ từ các quốc gia lớn hơn bằng cách áp dụng thuế quan của riêng họ.

5. Phản ứng của Mexico đối với thuế quan của Hoa Kỳ:

Mexico cũng đã áp dụng thuế RT đối với Hoa Kỳ để đáp trả các thông báo thuế quan khác nhau từ Washington D.C., đặc biệt là những thông báo tác động đến thép và hàng nông sản. Chính phủ Mexico đã tập trung vào các lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế của mình trong khi giải quyết những gì mà họ coi là các hoạt động thương mại không công bằng.

Các hành động thuế RT gần đây ban đầu chủ yếu liên quan đến các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ tương tác với Trung Quốc, Canada, Mexico và Liên minh châu Âu, nhưng sau đó đã lan rộng khi Hoa Kỳ tuyên bố áp đặt thuế RT với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Tác động của thuế RT đối với năng lượng sạch của Hoa Kỳ:

Theo tạp chí Time, thuế RT của Chính quyền Trump được công bố vào ngày 2 tháng 4, áp dụng mức thuế 10% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu và thuế nhập khẩu bổ sung đối với nhiều quốc gia. Công bố Thuế RT này khiến thị trường chứng khoán toàn cầu lao dốc và dự kiến ​​sẽ có tác động mạnh đến người tiêu dùng và các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ. Bất chấp tuyên bố của Tổng thống Donald Trump rằng: “Thuế quan sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước”, các chuyên gia cho rằng: “Khi nói đến năng lượng sạch, thuế quan sẽ làm tăng chi phí cho các công ty Hoa Kỳ nhận nguồn cung từ nước ngoài và khiến chuỗi cung ứng toàn cầu rơi vào tình trạng hỗn loạn”.

“Chỉ riêng đối với pin, tấm panel mặt trời PV và tua bin gió mà chúng tôi muốn xây dựng tại Hoa Kỳ, sẽ cần các bộ phận, linh kiện và vật liệu quốc tế cho những thứ đó. Đây không phải là thứ mà chúng tôi có thể tự sản xuất trong khoảng thời gian cần thiết để đạt được các mục tiêu về khí hậu” - Bentley Allan - Phó giáo sư tại Đại học Johns Hopkins và đồng Giám đốc Phòng thí nghiệm Chính sách Công nghiệp Net Zero cho hay.

Dưới đây là một số tác động lớn nhất mà thuế RT có thể gây ra đối với các ngành công nghiệp năng lượng sạch:

1. Pin:

Pin lắp đặt trên lưới điện đang phải đối mặt với mức thuế khoảng 65% có thể tăng lên hơn 80% vào năm tới, khi Hoa Kỳ dự kiến ​​sẽ có ​​sự mở rộng kỷ lục trong việc áp dụng pin lưu trữ. Vào tháng 2/2025, Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ dự kiến ​​rằng 18,2 GW pin lưu trữ sẽ được bổ sung vào lưới điện của Hoa Kỳ vào năm 2025. Tuy nhiên, hầu hết pin lithium-ion cần thiết cho việc này đều được nhập khẩu từ Trung Quốc; kim ngạch xuất khẩu pin lithium-ion của Trung Quốc sang Hoa Kỳ đạt mức cao nhất mọi thời đại là 1,9 tỷ USD vào tháng 12 năm 2024. Trong khi giá pin đang giảm trên toàn thế giới do tình trạng cung vượt cầu, thì thuế quan dự kiến ​​sẽ làm tăng chi phí tại Hoa Kỳ.

2. Sản xuất xe điện:

Trong những năm gần đây, nhiều nhà sản xuất ô tô của Hoa Kỳ đã cố gắng thúc đẩy sản xuất xe điện sau khi Chính quyền Biden đặt ra nhiệm vụ rằng 50% tổng doanh số bán ô tô mới phải là xe điện vào năm 2030 và nhiều tiểu bang đặt ra nhiệm vụ không phát thải của riêng mình. Thuế quan của Trump, cùng với các động thái chống xe điện khác của chính quyền hiện tại, sẽ làm chậm tiến trình này.

Chính quyền Trump vẫn duy trì chính sách thời Biden áp dụng mức thuế 100% đối với xe điện do Trung Quốc sản xuất.

Ngay cả khi một chiếc ô tô được sản xuất tại Hoa Kỳ, nhiều bộ phận cần thiết vẫn được nhập khẩu từ nước ngoài. Allan cho biết: “Mặc dù chúng tôi đang xây dựng năng lực sản xuất trong nước nhanh nhất có thể, chúng tôi vẫn cần phải nhập khẩu, đặc biệt là các vật liệu thượng nguồn. Các khoáng chất quan trọng, cực âm, thỏi và tấm wafer, poly silicon, chúng tôi sẽ cần phải nhập khẩu những nguồn cung cấp đó và tất cả đều trở nên đắt đỏ hơn”.

3. Năng lượng mặt trời:

Phần lớn thiết bị năng lượng mặt trời của Hoa Kỳ được vận chuyển từ Đông Nam Á - một khu vực có mức thuế quan cao nhất được áp dụng. Nhiều nhà phát triển của Hoa Kỳ đã tích trữ các tấm panel mặt trời PV để chuẩn bị cho mức thuế quan, với báo cáo của Bloomberg rằng lượng hàng tồn kho dư thừa có thể khiến ngành công nghiệp không cảm nhận được cú sốc hoàn toàn từ mức thuế quan.

Tuy nhiên, các chuyên gia vẫn cảnh báo rằng: Nguồn cung trong nước có thể không theo kịp nhu cầu, đặc biệt là khi chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ chưa được xây dựng để đáp ứng nhu cầu.

“Ngay cả khi muốn xây dựng chuỗi cung ứng pin, hoặc tấm năng lượng mặt trời tại Hoa Kỳ, chúng tôi cũng sẽ mất nhiều thời gian để tích lũy chuyên môn và kiến ​​thức cần thiết để thực hiện điều đó. Về cơ bản, bằng cách tạo ra một cú sốc ở giữa quá trình đó, chúng tôi đang làm chậm quá trình đó lại và khiến nó khó hoàn thành hơn” - Phó giáo sư Bentley Allan bổ sung thêm.

“Thuế RT sẽ làm tăng lạm phát và tăng chi phí bổ sung lên hàng nhập khẩu và dẫn đến những tác động xấu mang tính hiệu ứng Domino cho chính các ngành kinh tế của Hoa Kỳ” - Michael Mehling - Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu chính sách năng lượng và môi trường của MIT nói với báo chí về tác động của thuế RT lên ngành kinh tế chung, đặc biệt là cho mục tiêu Net Zero của Hoa Kỳ. (Tổng thống Trump đã từ bỏ mục tiêu Net Zero).

Tác động của việc Hoa Kỳ tăng thuế nhập khẩu đối với hàng Việt Nam đến ngành năng lượng Việt Nam:

1. Tác động ngắn hạn:

Một trong những tác động tức thời dễ nhận thấy là sự suy giảm nhu cầu tiêu thụ năng lượng nội địa. Khi xuất khẩu giảm, nhiều nhà máy sản xuất phục vụ thị trường Mỹ phải thu hẹp quy mô hoặc ngừng hoạt động, dẫn đến sản lượng tiêu thụ điện và nhiên liệu tại các khu công nghiệp giảm mạnh. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có thể sẽ chịu áp lực tài chính khi sản lượng điện thương phẩm sụt giảm, nhưng các chi phí vận hành cố định vẫn giữ nguyên. Cùng lúc đó, nếu tỷ giá USD/VNĐ biến động theo chiều bất lợi, chi phí nhập khẩu than và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) có thể tăng, khiến giá điện đầu vào bị đẩy lên cao.

Bên cạnh đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có xu hướng chững lại. Trong bối cảnh thương mại bất định, nhiều nhà đầu tư sẽ trì hoãn các quyết định mới, nhất là các dự án điện theo mô hình BOT, hoặc IPP vốn yêu cầu dòng vốn lớn và có thời gian hoàn vốn dài. Họ lo ngại nhu cầu điện không tăng trưởng như dự báo ban đầu, và điều này ảnh hưởng tiêu cực đến tính khả thi của dự án.

Ngành năng lượng tái tạo cũng không nằm ngoài vòng xoáy ảnh hưởng. Trong bối cảnh hệ thống điện dư công suất do nhu cầu giảm, hiện tượng cắt giảm điện mặt trời và điện gió càng trở nên nghiêm trọng. Ngoài ra, do thiếu chính sách khuyến khích mới và áp lực tài chính của Chính phủ, nhiều dự án năng lượng tái tạo có thể tiếp tục bị chững lại, gây lãng phí nguồn lực đã đầu tư và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư.

Các dự án năng lượng lớn khác, đặc biệt là những dự án nhập khẩu thiết bị và công nghệ, cũng đang đối mặt với rủi ro chi phí gia tăng do tỷ giá và lạm phát. Nếu lãi suất tăng, hoặc tín dụng bị siết chặt, tiến độ triển khai các dự án có thể bị kéo dài. Những yếu tố này đồng thời ảnh hưởng đến doanh nghiệp tư vấn, khi khối lượng công việc suy giảm.

2. Tác động dài hạn và cơ hội chuyển hóa:

Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề trong ngắn hạn, Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng tình thế này để tái định hình cơ cấu tiêu thụ năng lượng. Nếu giảm dần sự phụ thuộc vào xuất khẩu, nền kinh tế có thể dịch chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa vào tiêu dùng nội địa và dịch vụ. Điều này sẽ giúp giảm cường độ năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.

Về dài hạn, các nhà đầu tư chiến lược vẫn đánh giá Việt Nam là thị trường hấp dẫn nhờ dân số gần 100 triệu người và quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Cam kết của Chính phủ về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và gói hỗ trợ tài chính từ các nước phát triển trong khuôn khổ JETP đang tạo ra lực hút mạnh mẽ cho dòng vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo.

Trước sức ép từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam có thể chủ động đa dạng hóa đối tác quốc tế bằng cách tăng cường hợp tác với Nhật Bản, EU, hoặc Trung Đông để phát triển các dự án năng lượng. Đồng thời, một số chính sách và quy hoạch hiện tại có thể được điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tế mới, tăng cường khai thác khí nội địa và khuyến khích sử dụng năng lượng hiệu quả.

Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để Việt Nam mở rộng hợp tác với các doanh nghiệp Hoa Kỳ theo hướng đôi bên cùng có lợi. Việc nhập khẩu LNG, tua bin và các thiết bị điện từ quốc gia này không chỉ giúp giảm thặng dư thương mại, mà còn cho phép tiếp cận công nghệ hiện đại. Các tập đoàn lớn như AES, GE, ExxonMobil hoàn toàn có thể đầu tư sâu hơn vào các dự án điện khí, điện gió, hoặc tham gia liên doanh cùng doanh nghiệp Việt Nam để phát triển các mô hình tiên tiến như lưu trữ năng lượng, hay lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ (SMR).

Về phía nội lực, các doanh nghiệp tư vấn kỹ thuật trong nước cần tận dụng thời điểm này để tái cấu trúc hoạt động, nâng cao năng lực chuyên môn và tìm kiếm cơ hội hợp tác với đối tác nước ngoài. Việc chuyển hướng sang các dịch vụ vận hành, bảo trì (O&M), đầu tư vào các lĩnh vực năng lượng sạch, hoặc mở rộng sang hạ tầng phi điện lực sẽ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực và tăng khả năng chống chịu trong tương lai.

Tóm lại, chính sách tăng thuế nhập khẩu của Mỹ mang đến nhiều khó khăn ngắn hạn cho ngành năng lượng Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Chính phủ và doanh nghiệp có chiến lược thích ứng linh hoạt, đây sẽ là cơ hội để cơ cấu lại ngành năng lượng theo hướng tự chủ, hiệu quả và bền vững hơn. Sự kết hợp giữa cải cách nội bộ, mở rộng hợp tác quốc tế và chuyển đổi sang mô hình phát triển xanh sẽ là chìa khóa giúp Việt Nam không chỉ vượt qua thách thức hiện tại mà còn tạo nền tảng vững chắc cho tương lai./.

CHUYÊN GIA PECC2 VÀ BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo:

- Reuters (2023–2025), S&P Global, WEF, Enerdata, Wikipedia

- PDP8, JETP, EVN reports

https://economictimes.indiatimes.com/definition/reciprocal-tariff?from=mdr

https://time.com/7275714/trump-tariffs-biggest-clean-energy-impacts/

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động