RSS Feed for Nhu cầu than của Việt Nam [Kỳ cuối]: Chính sách và giải pháp | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Chủ nhật 24/11/2024 01:05
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Nhu cầu than của Việt Nam [Kỳ cuối]: Chính sách và giải pháp

 - Qua dự báo nhu cầu than cho sản xuất điện, cũng như phân tích làm rõ nguồn cung (trong các kỳ trước), chuyên gia Tạp chí năng lượng Việt Nam kiến nghị tới Chính phủ và cơ quan quản lý Nhà nước về năng lượng một số giải pháp phát triển bền vững.


Nhu cầu than của Việt Nam [Kỳ 2]: Nguồn cung trong nước và nhập khẩu

Nhu cầu than của Việt Nam [Kỳ 1]: Dự báo đến năm 2035


KỲ CUỐI: CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG


PGS, TS. NGUYẾN CẢNH NAM - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


I. Khai thác than trong nước:

Mục tiêu: Với vai trò, ý nghĩa của khai thác than trong nước là nâng cao tính tự chủ trong việc đáp ứng nhu cầu than của nền kinh tế, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và an ninh năng lượng quốc gia, theo đó, mục tiêu khai thác than trong nước là phấn đấu tăng sản lượng đến mức cao nhất, đảm bảo ổn định với giá thành hợp lý.

Để đạt được mục tiêu đó, cần có cơ chế, chính sách và giải pháp đồng bộ như sau:

A. Đối với Nhà nước:

1/ Nâng cao chất lượng quy hoạch trên cơ sở đổi mới tư duy, cách tiếp cận và phương pháp xây dựng quy hoạch tổng thể năng lượng, quy hoạch than, quy hoạch các phân ngành năng lượng phù hợp với nền kinh tế thị trường hội nhập ngày càng sâu rộng, khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, bất ổn địa chính trị, thương mại trên thế giới và khu vực, cũng như thiên tai, dịch bệnh ngày càng phức tạp, khó lường, cuộc chiến chống biến đổi khí hậu ngày càng quyết liệt.

2/ Chính phủ tăng cường chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương liên quan khẩn trương khắc phục các vướng mắc để đẩy nhanh việc cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác theo tinh thần giảm điều kiện kinh doanh, tăng cường hậu kiểm.

Mặt khác, khắc phục những bất cập, chồng chéo trong một số quy hoạch của địa phương gây cản trở đối với việc thực hiện quy hoạch than, nhất là tại Quảng Ninh nhằm tạo điều kiện triển khai kịp thời các hoạt động thăm dò, khai thác phần tài nguyên, trữ lượng than đang bị vướng các quy hoạch địa phương.

3/ Để nắm chắc tài nguyên than (thuộc sở hữu Nhà nước) làm cơ sở cho việc lập quy hoạch một cách tin cậy trong bối cảnh đầu tư cho thăm dò có quá nhiều rủi ro, Nhà nước cần tăng cường đầu tư thăm dò từ nguồn vốn NSNN, hoặc có chính sách hỗ trợ thích hợp cho doanh nghiệp đẩy mạnh công tác thăm dò than.

4/ Nâng cao chất lượng cấp phép thăm dò, cấp phép khai thác; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động thăm dò, khai thác, kinh doanh than theo đúng quy hoạch than đã phê duyệt và quy định của pháp luật.

5/ Tổ chức sản xuất than nên duy trì hình thức nhóm công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con để tạo điều kiện điều tiết giữa mỏ thuận lợi và mỏ khó khăn nhằm duy trì sản lượng, ổn định giá, đảm bảo an sinh xã hội và khai thác tận thu tài nguyên than.

6/ Nhà nước cần kịp thời điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách tiền lương, chăm sóc sức khỏe, phúc lợi xã hội, nhà ở, bảo hiểm để thu hút lao động cho các mỏ than hầm lò sẽ đóng vai trò chính cung cấp than trong thời gian tới.

7/ Hiện nay, khai thác than chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong nước nên chính sách thuế, phí tăng cao đối với than là chẳng khác gì “lấy gạch ghè vào chân mình”, vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất than, vừa làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm sử dụng than. Do vậy, Nhà nước cần xem xét giảm thuế, phí một cách hợp lý phù hợp (với đặc điểm của khai thác than) để tạo điều kiện cho doanh nghiệp than có lợi nhuận đủ trích lập quỹ đầu tư phát triển, khuyến khích khai thác tận thu tối đa tài nguyên theo đúng chính sách về khai thác tài nguyên khoáng sản, nhờ đó tăng thêm sản lượng than, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm sử dụng than.

Theo đó, trước hết, Nhà nước cần bỏ khoản tiền cấp quyền khai thác vì thực chất khoản thu này trùng với thuế tài nguyên. Tiếp theo, cần xem xét giảm thuế tài nguyên xuống mức tối thiểu để khuyến khích khai thác tận thu tài nguyên (cụ thể là đối với than hầm lò là 4% và than lộ thiên là 6%).

8/ Chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 26/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động SXKD than.

9/ Cho phép ngành than xuất khẩu một số loại than không phụ thuộc vào hạn ngạch mà trong nước không, hoặc có nhu cầu thấp theo nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và ưu tiên đáp ứng nhu cầu than trong nước khi cần thiết.

10/ Để đối phó với gián đoạn nguồn cung than, nhất là than nhập khẩu do các nguyên nhân thị trường và phi thị trường (như biến động thị trường, tác động của biến đổi khí hậu, biến động chính trị - xã hội, trừng phạt kinh tế v.v...), Nhà nước cần thiết lập Dự trữ quốc gia về than để cung cấp than khẩn cấp nhằm đảm bảo an ninh năng lượng khi có các tình huống gián đoạn nguồn cung than vượt quá mức dự trữ than của các doanh nghiệp.

11/ Ban hành Quy chuẩn môi trường ngành than phù hợp với đặc điểm của khai thác than (thay cho việc áp dụng chung Quy chuẩn môi trường công nghiệp hiện nay).

Về phát triển thị trường than trong nước gắn với đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia:

Thứ nhất: Xây dựng lộ trình, các điều kiện và tái cơ cấu ngành than để phát triển thị trường than vận hành công khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh.

Thứ hai: Xây dựng lộ trình thực hiện SXKD than theo cơ chế thị trường gắn với đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Thứ ba: Tăng cường cơ chế mua - bán than theo hợp đồng kinh tế dài hạn (tối thiểu 5 năm) giữa nhà sản xuất, cung ứng than và các nhà máy nhiệt điện than.

Về tăng cường sử dụng than hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và phát triển nhiệt điện than đảm bảo giảm phát thải khí nhà kính, thân thiện với môi trường, Nhà nước cần sớm ban hành chính sách sử dụng than hợp lý, nhất là về chủng loại và chất lượng phù hợp cho các hộ sử dụng than: Điện, xi măng, phân bón, giấy, các hộ khác. Đặc biệt, ưu tiên sử dụng than khai thác trong nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngành than ổn định sản xuất than và đầu tư phát triển than bền vững trong lâu dài.

B. Đối với doanh nghiệp:

1/ Đẩy mạnh đầu tư thăm dò một cách hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn và nâng cao mức độ tin cậy của công tác thăm dò nhằm thực hiện mục tiêu nắm chắc tài nguyên.

2/ Đẩy mạnh đầu tư đổi mới, hiện đại hóa công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao vật tư và tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác.

3/ Tăng cường công tác đảm bảo an toàn lao động theo tinh thần kiên định với mục tiêu “tai nạn bằng không”.

4/ Tăng cường công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

5/ Tăng cường đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; có chính sách, biện pháp thích đáng thu hút công nhân hầm lò.

6/ Tăng cường hợp lý hóa sản xuất và công tác quản trị chi phí để tận dụng tối đa tài nguyên than, giảm tiêu hao vật tư, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí trên cơ sở giảm thất thoát, lãng phí trong sử dụng vật tư, giảm tồn kho, quay nhanh vòng vốn.

7/ Tăng cường sự hợp tác chặt chẽ, bền vững, hiệu quả giữa các doanh nghiệp SXKD than, các đơn vị phụ trợ và các hộ sử dụng than, nhất là các NMNĐ than.

8/ Có giải pháp huy động tối đa các nguồn lực của xã hội tham gia đầu tư để góp phần thúc đẩy tiến độ thi công và nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư khai thác than.

9/ Tăng cường hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế với các đối tác có tiềm lực mạnh.

II. Về nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài:

Thứ nhất: Về chiến lược, cơ chế chính sách và công tác quản lý nhà nước:

1/ Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan có biện pháp, chính sách thích hợp đẩy mạnh nghiên cứu, tìm hiểu các tiềm năng tài nguyên than và cơ hội đầu tư, pháp luật quốc tế về thương mại và đầu tư, văn hóa bản địa, nguồn nhân lực... của các nước có tiềm năng tài nguyên than, trên cơ sở đó khẩn trương xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược cùng các chính sách nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than.

2/ Duy trì hoạt động của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Nhập khẩu than để chỉ đạo triển khai công tác nhập khẩu than một cách đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt.

3/ Thủ tướng Chính phủ, các bộ cho phép được đàm phán giá mua bán than theo thông lệ quốc tế (đa dạng hóa loại hình và kỳ hạn hợp đồng, tăng cường sử dụng loại hợp đồng giá thả nổi gắn liền với chỉ số giá giao ngay, ký hợp đồng bảo hiểm rủi ro với các định chế tài chính để cho phép lựa chọn giá thả nổi cố định bất kỳ khi nào muốn). Mặt khác, cho phép ký các cam kết dài hạn với các nhà cung cấp than lớn trên thế giới, có uy tín để nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện than trong nước đảm bảo ổn định dài hạn với giá cả hợp lý, phù hợp với các chỉ số giá than trên thị trường quốc tế (như than Nam Phi theo Richard bay, than Úc theo Newcastle và các chỉ số API4,5...).

4/ Chính phủ cần sớm có chỉ đạo về phương án xây dựng cảng trung chuyển than nhập khẩu, cũng như có các chính sách hỗ trợ mang tầm chiến lược, ổn định lâu dài để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia đầu tư dài hạn, quản lý hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh lâu dài với các doanh nghiệp trên thế giới.

5/ Chính phủ và Bộ Công Thương cần có những chỉ đạo kịp thời tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nhập khẩu than. Cần có các văn bản thay thế các văn bản song hành chưa thống nhất.

6/ Chính phủ và các cấp có thẩm quyền cần có những văn bản hướng dẫn chi tiết về việc tạo cơ hội cho các đội tàu Việt Nam tham gia vận chuyển hàng hóa theo Văn bản số 375/TTg-CN ngày 10/3/2017, đảm bảo cạnh tranh, minh bạch và đúng quy định của pháp luật và các công ước Quốc tế Việt Nam tham gia. Đồng thời có cơ chế, chính sách khuyến khích để phát triển đội tàu vận chuyển nội địa, ven biển chuyên dụng phù hợp cho việc vận chuyển, bốc dỡ từ các các trung chuyển than nhập khẩu về các nhà máy nhiệt điện than.

Thứ hai: Về nâng cao năng lực nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài:

1/ Nhà nước thực hiện, hoặc có chính sách, giải pháp thích hợp hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu than. Cho phép các đầu mối nhập khẩu than tham gia đầu tư, xây dựng, hoặc ký hợp đồng dài hạn với các đối tác sở hữu cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu than, đảm bảo việc quản lý chuỗi cung ứng tối ưu nhất, tiết kiệm chi phí than nhập khẩu. Bên cạnh đó, cho phép nghiên cứu xây dựng các trung tâm quản lý than cho mỗi cụm các nhà máy điện than (3 - 5 nhà máy) với mục đích quản lý giao nhận, phối trộn và điều hành chuổi cung ứng tập trung trong cụm.

2/ Có biện pháp thúc đẩy, liên kết các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh than hợp tác, hợp lực với các doanh nghiệp sử dụng than trong nước, cũng như các đối tác nước ngoài trong việc nhập khẩu than và đầu tư ra nước ngoài khai thác than.

3/ Đối với việc nhập khẩu than cho sản xuất điện, nên giao cho các đầu mối chủ động thu xếp nguồn than ổn định lâu dài bằng các hợp đồng trung và dài hạn (3-5 năm) thông qua việc đàm phán trực tiếp với chủ mỏ (với khối lượng từ 60% đến 80% tổng nhu cầu than). Quá trình đàm phán trực tiếp lựa chọn các nhà cung cấp dài hạn phải đảm bảo tính cạnh tranh, minh bạch, dựa trên các chỉ số giá toàn cầu, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của luật pháp Việt Nam.

4/ Trong quá trình phê duyệt dự án đầu tư các nhà máy nhiệt điện than dùng than nhập khẩu, cần đặc biệt chú trọng đến nguồn nhập khẩu, công tác vận chuyển, quản lý và điều phối chuỗi cung ứng để đảm bảo việc cung cấp than cho các nhà máy được ổn định, lâu dài trong vòng đời dự án theo thiết kế được phê duyệt./.

Tài liệu tham khảo:

[1] Điều chỉnh “Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến 2020, có xét triển vọng đến 2030” được phê duyệt theo Quyết định số 403/2016/QĐ-TTg ngày 14/3/2016.

[2] Viện Năng lượng – Bộ Công Thương, 2016, “Quy hoạch phát triển năng lượng Việt Nam đến 2025, có xét đến 2035" (dự thảo).

[3] BP Statistical Review of World Energy 2019.

[4] Nguyễn Cảnh Nam: Than, điện than tăng trưởng trong sự phân hóa theo xu thế tất yếu. NangluongVietnam Online 05:53 |25/09/2019.

[5] Niên giám Thống kê Việt Nam 2017.

[6] Energy, Environment and Economy: Prospects and Challenges until 2050 - IEEJ Outlook 2018. The Institute of Energy Economics, Japan – IEEJ, October 2017.

[7] BP Statistical Review of World Energy 2020.

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động