Kết luận của Tổng Bí thư tại buổi làm việc với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam
10:08 | 17/09/2025
![]() Ngày 4/9/2025, trong dư âm phấn khởi cả nước vừa tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, Tổng Bí thư Tô Lâm và Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đến thăm Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam - đơn vị đầu ngành của lĩnh vực quan trọng của đất nước. Chuyến thăm của Tổng Bí thư và Thủ tướng là động lực hết sức quý báu đối với toàn thể cán bộ, nhân viên ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam, khích lệ quyết tâm góp phần thực hiện tốt trọng trách được giao. Nhân sự kiện mang tính lịch sử của ngành, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam hoàn thiện Báo cáo phân tích về “Nghiên cứu và thử nghiệm khoa học - công nghệ phục vụ điện hạt nhân ở Việt Nam”. Báo cáo tập trung phân tích vai trò của nghiên cứu và thử nghiệm đối với chương trình điện hạt nhân; giới thiệu các loại hình cơ sở nghiên cứu - thử nghiệm chủ chốt; trình bày kinh nghiệm quốc tế; và đề xuất gợi ý cho Việt Nam nhằm phát triển một nền tảng khoa học - công nghệ hạt nhân bền vững, phục vụ cho chương trình điện hạt nhân trong tương lai. (Về nội dung chỉ đạo của Tổng Bí thư và Thủ tướng đối với ngành, chúng tôi sẽ cập nhật chi tiết, kèm theo bình luận chuyên sâu trong bài viết tiếp theo). |
![]() Chất thải phóng xạ từ các cơ sở hạt nhân luôn là chủ đề gây tranh luận gay gắt, thường được coi là rào cản lớn nhất đối với sự phát triển của điện hạt nhân. Các lo ngại phổ biến tập trung vào khả năng tồn tại dai dẳng của chất thải, rủi ro vận chuyển, nguy cơ an ninh và chi phí quản lý lâu dài. Trên thực tế, hơn nửa thế kỷ qua, công nghệ xử lý và lưu giữ chất thải hạt nhân đã được nghiên cứu, chuẩn hóa và ứng dụng rộng rãi, chứng minh hiệu quả và độ an toàn. Báo cáo dưới đây của chuyên gia Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam phân tích những lo ngại thường gặp, so sánh với thực tế kỹ thuật, đồng thời giới thiệu các công nghệ xử lý - lưu giữ hiện đại, kinh nghiệm quốc tế về quản lý chi phí và gợi mở một số hàm ý cho Việt Nam, trong bối cảnh chúng ta tạm dừng điện hạt nhân từ năm 2016, nay có thảo luận tái khởi động lại. |
![]() Với các quốc gia đang phát triển chương trình điện hạt nhân như Việt Nam, việc tiếp cận và triển khai các công nghệ điện hạt nhân cần được đặt trong một khuôn khổ thể chế phù hợp, có lộ trình rõ ràng và năng lực nội địa được chuẩn bị đầy đủ. Bài báo của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam dưới đây phân tích các đặc điểm về công nghệ và tổ chức thi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân được rút ra từ kinh nghiệm quốc tế, cũng như hướng dẫn của IAEA, đặc biệt từ tài liệu NP-T-2.5, từ đó đề xuất một số gợi ý áp dụng cho Việt Nam. |
![]() Bài viết này Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam phân tích các số liệu chủ đạo trong kinh nghiệm vận hành - OPEX 2024 và những xu hướng vận hành nổi bật hiện nay. Đồng thời, làm rõ các nguyên nhân phổ biến dẫn đến sự cố, cơ chế chia sẻ kinh nghiệm trong mạng lưới quốc tế và vai trò của các tổ chức như IAEA trong duy trì hệ thống học hỏi toàn cầu. Trên cơ sở đó, đề xuất một số bài học thực tiễn và gợi ý áp dụng phù hợp cho Việt Nam - quốc gia đang từng bước chuẩn bị về thể chế, cũng như năng lực để tái khởi động chương trình điện hạt nhân một cách an toàn, bền vững. |
Ngày 4/9/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã làm việc với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) tại trụ sở của Viện.
Tham dự buổi làm việc có Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; các Uỷ viên Bộ Chính trị: Nguyễn Duy Ngọc - Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an; Lê Minh Hoan - Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội.
Đại diện lãnh đạo các cơ quan: Ban Tổ chức Trung ương; Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; Ban Chính sách, chiến lược Trung ương; Văn phòng Trung ương Đảng; Bộ Quốc phòng; Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường; đại diện một số nhà khoa học; Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam; lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Viện, trưởng các đơn vị trực thuộc VINATOM.
Sau khi nghe báo cáo của VINATOM, ý kiến của Thủ tướng Chính phủ và các đại biểu, Tổng Bí thư kết luận như sau:
Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách chuẩn bị tiền đề khoa học cho việc sử dụng năng lượng nguyên tử sau năm 2000 và chuẩn bị điều kiện để xây dựng nhà máy điện hạt nhân sau năm 2015; chủ trương tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và chương trình nghiên cứu điện hạt nhân tại Việt Nam. Trong đó, ban hành nhiều cơ chế, chính sách đột phá nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, như: Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Lĩnh vực năng lượng nguyên tử cũng có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực y tế, nông nghiệp, công nghiệp, bảo vệ môi trường. VINATOM có nhiều thành tích trong đào tạo nguồn nhân lực; tham mưu, đề xuất đầu tư xây dựng một số dự án trọng điểm lĩnh vực năng lượng nguyên tử; tích cực tham mưu, xây dựng hệ thống luật pháp, tiêu chuẩn, quy chuẩn theo thông lệ quốc tế; cơ quan pháp quy, mạng lưới quan trắc bức xạ môi trường từng bước được củng cố, phát triển.
Tổng Bí thư Tô Lâm ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao những đóng góp của các thế hệ cán bộ, lãnh đạo, các nhà khoa học, người lao động của Viện trong gần 50 năm qua đối với sự nghiệp phát triển ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Tuy nhiên, ngành năng lượng nguyên tử của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Cụ thể là:
1. Chưa có cơ chế, chính sách đặc thù tạo điều kiện phát triển lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
2. Ngân sách đầu tư cho lĩnh vực năng lượng nguyên tử chưa đáp ứng yêu cầu, phân tán, kém hiệu quả.
3. Hạ tầng an toàn, an ninh hạt nhân chưa đáp ứng yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc tế.
4. Phòng thí nghiệm lạc hậu, xuống cấp nghiêm trọng; chậm triển khai một số dự án quan trọng của ngành.
5. Năng lực phân tích an toàn độc lập bức xạ hạt nhân, năng lực đo kiểm - chứng nhận và chuỗi cung ứng còn hạn chế.
6. Chưa hoàn thiện hệ thống mã tính toán; diễn tập kịch bản trong nước và xuyên biên giới chưa thường xuyên.
7. Mô hình tổ chức bộ máy của VINATOM còn bất cập, chưa phát huy hết vai trò, nhiệm vụ và khả năng phát triển của Viện.
8. Năng lực, trình độ, hạ tầng, nhân lực của Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân chưa đáp ứng yêu cầu. Trong khi đó:
Thế giới đang bước vào một giai đoạn phát triển mới của năng lượng nguyên tử, đặc biệt là điện hạt nhân. Nhiều quốc gia đang tái khởi động, hoặc mở rộng các chương trình điện hạt nhân với công nghệ tiên tiến, an toàn hơn, thân thiện với môi trường và hiệu quả vượt trội. Mỹ, EU, Pháp, Anh… tiếp tục đầu tư, hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy điện hạt nhân mới, đưa công nghệ điện hạt nhân tiên tiến vào Đạo luật công nghiệp Net-Zero. Một số quốc gia ASEAN như: Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Malaysia, Campuchia, Lào, Myanmar đang đẩy mạnh phát triển công nghệ hạt nhân với nhiều nhà máy điện hạt nhân đang được nghiên cứu, xây dựng; tích cực hợp tác với Trung Quốc, Nga để phát triển nguồn nhân lực và xây dựng khung pháp lý cho năng lượng hạt nhân.
Các thế hệ lò phản ứng mới, nhất là lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) và siêu nhỏ đang tạo ra xu thế linh hoạt hơn, chi phí hợp lý hơn gắn với yêu cầu bảo đảm an ninh năng lượng cũng như mục tiêu trung hoà carbon.
Việc tái khởi động chương trình điện hạt nhân đặt ra yêu cầu cao về an ninh hạt nhân, địa điểm, đánh giá địa chất - thuỷ văn, động đất - sóng thần, quản lý chất thải, trách nhiệm dân sự và bảo hiểm, cùng năng lực thẩm định - cấp phép - giám sát độc lập phải phù hợp tiêu chuẩn quốc tế.
Từ thực trạng tình hình trên, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu cần thống nhất một số định hướng, chiến lược xuyên suốt:
1. Tuyệt đối không đánh đổi an toàn lấy tiến độ hay quy mô.
2. Kiên định xây dựng văn hoá an toàn là nền tảng, đồng thời phát triển năng lực nội sinh để từng bước làm chủ công nghệ hạt nhân.
3. Hợp tác quốc tế trên nguyên tắc đồng thiết kế, đồng chế tạo, đồng vận hành, đồng quản lý.
4. Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử cần thận trọng, từng bước, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và thông lệ quốc tế, với tầm nhìn chiến lược, sự kiên định và cách tiếp cận toàn diện từ thể chế, nhân lực, hạ tầng, công nghệ.
Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu cần thực hiện một số định hướng và nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất: Xác định phát triển năng lượng nguyên tử là mục tiêu chiến lược lâu dài, có tầm quan trọng cốt yếu trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, góp phần nâng cao sức mạnh, vị thế và nâng tầm quốc gia. Xây dựng và phát triển điện hạt nhân phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho con người, môi trường và xã hội, tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn của cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế.
Thứ hai: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để phát triển năng lượng nguyên tử phù hợp với tình hình mới. Nghiên cứu, tổ chức lại mô hình Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển mới theo hướng:
- Tách bạch chức năng quản lý nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ với chức năng tổ chức sự nghiệp khoa học và công nghệ của VINATOM.
- Đề nghị Đảng uỷ Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu mô hình hợp nhất VINATOM và Viện Vật lý (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam).
- Hoặc nghiên cứu mô hình VINATOM trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam.
- VINATOM cần làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giới thiệu chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực an toàn bức xạ hạt nhân.
- Giữ vai trò nòng cốt trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, xử lý sự cố hạt nhân.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và nâng cao năng lực, tiềm lực và khả năng điều phối về an toàn bức xạ hạt nhân của Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân.
Thứ ba: Tăng cường đầu tư hạ tầng nghiên cứu khoa học, công nghệ lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thành dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Công nghệ hạt nhân tại Đồng Nai bảo đảm an toàn, hiệu quả, đưa vào vận hành chậm nhất trong năm 2030; nâng cấp Lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt; từng bước đầu tư, nâng cấp mới hoặc đầu tư kết hợp các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia phục vụ nghiên cứu, thử nghiệm.
Có cơ chế, chính sách hợp tác công - tư trong nghiên cứu khoa học, công nghệ lĩnh vực năng lượng nguyên tử; ứng dụng mạnh mẽ, hiệu quả công nghệ tiến tiến và mở rộng mạng quan trắc bức xạ môi trường, kết nối dữ liệu thời gian thực, thiết lập bộ số liệu nền phóng xạ tại địa điểm và xung quanh nhà máy điện hạt nhân; bảo đảm liên thông mạng quan trắc bức xạ môi trường, số hoá cơ sở dữ liệu nguồn - thiết bị, hoàn thiện mô hình phát tán và công bố dữ liệu minh bạch có kiểm soát để tăng niềm tin trong Nhân dân; hình thành bản đồ nguồn phóng xạ và công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) giúp đánh giá rủi ro theo từng địa bàn.
Ban hành Chương trình quốc gia về nghiên cứu khoa học, công nghệ hạt nhân; chương trình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sản xuất điện hạt nhân bằng phương pháp muối nóng chảy, lò phản ứng hạt nhân sử dụng nhiên liệu thorium (MSR). Từng bước làm chủ và nội địa hoá công nghệ lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) và lò tiên tiến thế hệ IV. Nghiên cứu thiết kế, chế tạo và từng bước làm chủ công nghệ sản xuất nhiên liệu hạt nhân, các thiết bị, máy móc trong ứng dụng năng lượng nguyên tử, quan trắc và bảo đảm an toàn hạt nhân. Nghiên cứu tiến tới làm chủ công nghệ tuyển, tách, chế biến đất hiếm phục vụ phát triển ngành công nghiệp đất hiếm, urani, titan, vonfram.
Thứ tư: Có giải pháp đột phá phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ, nhà khoa học, kỹ sư đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; thu hút chuyên gia trong nước và nước ngoài làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về lương, phụ cấp và các hỗ trợ khác đối với những người trực tiếp làm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ hạt nhân; có chính sách hỗ trợ thoả đáng đối với sinh viên, nhà khoa học khi được cử đi nghiên cứu, học tập tại các tổ chức nghiên cứu lĩnh vực năng lượng nguyên tử của các nước tiên tiến, bạn bè truyền thống. Hình thành, phát triển một số nhóm nghiên cứu khoa học, công nghệ uy tín người Việt Nam tại các tổ chức nghiên cứu quốc tế.
Thứ năm: Hợp tác hiệu quả và có chọn lọc hơn nữa với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, các viện, tổ chức nghiên cứu uy tín trên thế giới trong nghiên cứu khoa học, công nghệ, đào tạo nhân lực, pháp quy hạt nhân. Tranh thủ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính của các tổ chức quốc tế. Kịp thời theo sát quá trình triển khai công nghệ hạt nhân của các nước ASEAN để đúc rút kinh nghiệm trong việc triển khai dự án điện hạt nhân ở nước ta. Kịp thời nhận diện và có biện pháp ứng phó nguy cơ ảnh hưởng môi trường, an toàn hạt nhân khi các nước xây dựng, vận hành nhà máy điện hạt nhân.
Một số đề xuất của VINATOM thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ. Đề nghị Bí thư Đảng uỷ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo giải quyết theo thẩm quyền; chỉ đạo Bí thư Đảng uỷ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư trong việc chuẩn bị Đề án “Đẩy mạnh phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình phục vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới” bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định./.
BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM