Điện hạt nhân Ninh Thuận dưới góc nhìn ổn định hệ thống
13:52 | 29/01/2015
NGUYỄN MẠNH CƯỜNG, Viện Năng lượng (Bộ Công Thương)
Tổng quan
Hệ thống điện Việt Nam trong những năm trở lại đây có sự phát triển mạnh mẽ. Sản lượng điện thương phẩm năm 2000 chỉ đạt 22 tỷ kWh, đến năm 2013 đã đạt 115 tỷ kWh, tốc độ tăng trưởng trung bình 13,5%/năm. Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ điện cho phát triển kinh tế - xã hội, các nguồn điện mới đã liên tục được đầu tư xây dựng.
Từ năm 2000 đến nay, ngành điện đã đưa vào thêm khoảng 20.500 MW nguồn điện, nâng tổng công suất đặt nguồn điện từ 8.954 MW năm 2000 lên 29.500 MW năm 2013.
Đóng góp chủ yếu cho sự gia tăng công suất nguồn là các nhà máy thủy điện, với công suất tăng thêm 11.000 MW, nhà máy điện đốt than 5.300 MW, nhà máy điện chạy khí 2.800 MW [1, 2]. Công suất đặt các loại nguồn điện giai đoạn 2000-2013 được thể hiện trong biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: công suất đặt các loại nguồn điện giai đoạn 2000-2013
Theo Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến 2030 (Quy hoạch điện 7) và dự thảo Quy hoạch 7 hiệu chỉnh (lập năm 2014), dự kiến nhu cầu tiêu thụ điện trong nước vẫn tiếp tục tăng trưởng cao trong những năm sắp tới. Tương ứng với sự tăng trưởng phụ tải, các nguồn điện vẫn sẽ tiếp tục được xây mới trên cả 3 miền: Bắc - Trung - Nam. Dự báo nhu cầu công suất hệ thống và công suất đặt nguồn điện toàn quốc giai đoạn 2013-2030 như biểu đồ 2.
Biểu đồ 2: dự báo công suất lớn nhất và công suất đặt nguồn điện toàn quốc giai đoạn 2013-2030
Nhu cầu phụ tải miền Nam luôn chiếm khoảng 1/2 tổng nhu cầu toàn quốc, nhưng xây dựng đủ nguồn cho miền Nam luôn là vấn đề thách thức lớn đối với ngành điện. Nguồn cấp khí và cấp than cho miền Nam vẫn còn nhiều bất định. Do đó, việc xây dựng nhà máy ĐHN sẽ là lựa chọn có tính khả thi cao với nguồn nhiên liệu ổn định, giá thành thấp.
Biểu đồ 3: Cơ cấu nguồn điện miền Nam giai đoạn 2014-2030
Khu vực Nam Trung Bộ được lựa chọn là cụm nguồn điện quan trọng cấp điện cho miền Nam có công suất nguồn lên đến 20.000 MW, với sự tham gia của nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1, 2 (4.000 MW), Trung tâm điện lực (TTĐL) Vĩnh Tân 5.580 MW, TTĐL Vân Phong 2.640 MW và ba nhà máy thủy điện (NMTĐ) tích năng 3.600 MW.
Sự tập trung nguồn lớn tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận đã gây ra áp lực cho hệ thống truyền tải. Theo Quy hoạch 7 và quy hoạch đấu nối các TTĐL vào hệ thống điện, nguồn Nam Trung Bộ sẽ sử dụng cấp điện áp 500 kV truyền tải trên khoảng cách 250-300 km về miền Đông Nam Bộ (hình 1). Khoảng cách truyền tải 300 km được coi là khá dài, ảnh hưởng đến giới hạn truyền tải theo điều kiện ổn định.
Theo Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) [3], JAPC [4], ở cấp điện áp 500 kV, khoảng cách truyền tải 300 km thì mức mang tải lâu dài không nên vượt quá khoảng 1.200 MW.
Quy hoạch điện 7 và quy hoạch đấu nối các nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1, 2 cũng đưa đến kết luận cần xây dựng từ 8 đến 14 mạch đường dây 500 kV để truyền tải cụm nguồn điện, tùy theo sự gia tăng công suất nguồn giai đoạn 2020-2030. Có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu trong quá trình thiết kế, đầu tư xây dựng một nhà máy điện vào hệ thống điện quốc gia như: vấn đề phân bổ trào lưu công suất hệ thống, điện áp lưới điện, độ tin cậy, ổn định hệ thống điện… Ở khoảng cách truyền tải lớn (300 km), công suất tải cao thì vấn đề ổn định hệ thống điện cần được quan tâm hàng đầu. ĐHN là nhà máy điện rất đặc biệt nên càng phải có những nghiên cứu chuyên sâu để đảm bảo cho sự vận hành an toàn, lâu dài của nhà máy.
Hình 1.4 Sơ đồ Hệ thống điện 500 kV khu vực Miền Nam năm 2024
Xem đầy đủ nội dung bài viết tại đây.