Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia [Kỳ 2]
06:45 | 08/06/2018
Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia [Kỳ 1]
KỲ 2: BẤT CẬP TRONG THỰC HIỆN CÁC QUY HOẠCH - TIỀM ẨN RỦI RO AN NINH NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA
PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Ngành điện:
1/ “Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020” phê duyệt theo Quyết định số 176/2004/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ kết luận của Bộ Chính trị về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam ngày 24/10/2003.
2/ “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025” phê duyệt theo Quyết định số 110/2007/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ vào Luật Điện lực 2004.
3/ “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030” phê duyệt theo Quyết định số 1208/2011/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ vào Luật Điện lực 2004.
4/ “Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030” phê duyệt theo Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ vào Luật Điện lực 2004; Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Điện lực năm 2012 và Nghị định số 137/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật Điện lực và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Điện lực.
Thậm chí Quy hoạch điện VII điều chỉnh năm 2016 cũng chẳng căn cứ vào “Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” được phê duyệt theo Quyết định số 2068/2015/QĐ-TTg.
Ngành dầu khí:
“Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025” được phê duyệt theo Quyết định số 386/2006/QĐ-TTg; “Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và định hướng đến năm 2035” được phê duyệt theo Quyết định số 1748/2015/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ vào Nghị quyết của Bộ Chính trị.
Còn Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam giai đoạn đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” phê duyệt theo Quyết định số 459/2011/QĐ-TTg và “Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” phê duyệt theo Quyết định số 1030/2017/QĐ-TTg “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035” phê duyệt theo Quyết định số 60/2017/QĐ-TTg và “Quy hoạch phát triển hệ thống dự trữ dầu thô và các sản phẩm xăng dầu của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” phê duyệt theo Quyết định số 1030/2017/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ vào Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam theo Quyết định số 386/2006/QĐ-TTg và Quyết định số 1748/2015/QĐ-TTg đã nêu trên.
Ngành than:
“Chiến lược phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” được phê duyệt tại Quyết định số 89/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ xây dựng không căn cứ vào chiến lược, quy hoạch nào cả.
Với “Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030” được phê duyệt theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg và “Điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030” phê duyệt theo Quyết định số 403/2016/QĐ-TTg chỉ được xây dựng căn cứ vào “Chiến lược phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025” phê duyệt theo Quyết định số 89/2008/QĐ-TTg ngày 07/7/2008, mặc dù Chiến lược này đã lỗi thời.
Năng lượng tái tạo:
“Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” được phê duyệt theo Quyết định số 2068/2015/QĐ-TTg chỉ căn cứ vào Luật Điện lực 2004 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điệu của Luật Điện lực năm 2012.
Điện hạt nhân và quặng urani:
“Định hướng quy hoạch phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam giai đoạn đến năm 2030” phê duyệt tại Quyết định số 906/2010/QĐ-TTg ngày 17/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ chỉ căn cứu vào Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008.
Còn “Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng đá quý, đất hiếm và urani giai đoạn đến 2015, có xét đến năm 2025” được phê duyệt theo Quyết định số 1652/2012/QĐ-BCT của Bộ Công Thương chỉ căn cứ vào Luật Khoáng sản năm 2010 và Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Khoáng sản.
Như vậy, chiến lược, quy hoạch các phân ngành năng lượng: điện, than, dầu khí, NLTT không được xây dựng dựa trên một chiến lược chung toàn ngành năng lượng. Đó là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển không đồng bộ, không thống nhất giữa các phân ngành năng lượng cũng như sự phát triển thiếu đồng bộ, thống nhất, cân đối, hài hòa của toàn ngành năng lượng nước ta.
1/ Việc lập chiến lược, quy hoạch các phân ngành năng lược còn có những bất cập, hạn chế, cụ thể là:
Thứ nhất: Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia (năm 2007):
Trong Chiến lược này nêu 5 Quan điểm phát triển với tinh thần chủ đạo là: Phát triển năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Phát triển năng lượng quốc gia phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế; Từng bước hình thành thị trường năng lượng; Phát triển đồng bộ và hợp lý hệ thống năng lượng: điện, dầu khí, than, năng lượng mới và tái tạo; Ứng dụng các thành tựu của kinh tế tri thức để nâng cao hiệu suất, hiệu quả kinh doanh năng lượng; Phát triển năng lượng gắn chặt với giữ gìn môi trường sinh thái, bảo đảm thực hiện phát triển năng lượng bền vững.
Tuy nhiên, đó chỉ mới là những yêu cầu, nguyên tắc chung về định hướng phát triển năng lượng, còn bản thân Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia này cũng chưa có các căn cứ để xây dựng như đã nêu trong các quan điểm trên đây. Ví dụ chưa có: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050 (năm 2011 mới có Chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2020); Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế (đến năm 2016 mới có cho giai đoạn đến năm 2030), Chiến lược phát triển bền vững (năm 2012 mới có cho giai đoạn đến năm 2020), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (năm 2012 mới có), Chiến lược bảo vệ môi trường (năm 2012 mới có cho giai đoạn đến năm 2030), Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ (năm 2011 mới có cho giai đoạn đến năm 2020), Chiến lược sử dụng công nghệ sạch (năm 2013 mới có cho giai đoạn đến năm 2030), Chiến lược phát triển nhân lực (năm 2011 mới có cho giai đoạn đến năm 2020), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (năm 2011 mới có), vv... Chính vì vậy mà nhiều mục tiêu đề ra trong Chiến lược chưa có cơ sở tin cậy. Chẳng hạn như: “Đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội: trong đó năng lượng sơ cấp đến năm 2020 đạt khoảng 100 - 110 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2025 khoảng 110 - 120 triệu TOE và đến năm 2050 khoảng 310 - 320 triệu TOE”, hay “đưa tổng công suất các nhà máy lọc dầu lên khoảng 25 đến 30 triệu tấn dầu thô vào năm 2020”, hay mục tiêu về điện hạt nhân, về môi trường, về hội nhập, vv...
Thứ hai: Các chiến lược, quy hoạch các phân ngành năng lượng (điện, than, dầu, khí, NLTT) chưa căn cứ vào Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia chung như đã nêu trên mà theo các căn cứ riêng của từng phân ngành thiếu sự liên kết đồng bộ với nhau.
Thứ ba: Các chiến lược, quy hoạch các phân ngành năng lượng được lập dựa vào tiềm năng trữ lượng thiếu tin cậy, hoặc chưa rõ ràng của các nguồn tài nguyên năng lượng như nêu ở điểm 3 dưới đây. Chính vì vậy, quy hoạch điện và quy hoạch than trong nhiều trường hợp chưa xác định được danh mục các dự án đầu tư, hoặc thiếu tính khả thi. Chẳng hạn:
Trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh số 428/2016 các dự án điện năng lượng tái tạo chỉ ghi chung một cục: Các công trình “Năng lượng tái tạo gồm thủy điện nhỏ, điện gió, mặt trời, sinh khối, vv...” đưa vào vận hành năm 2016 với tổng công suất là 260MW; năm 2017: 360MW; năm 2018: 520MW; năm 2019: 450MW; năm 2020: 470MW; năm 2021: 790MW; năm 2022: 1.200MW; năm 2023: 1.000MW; năm 2024: 1.200MW; năm 2025: 1.800MW; năm 2026: 2.160MW; năm 2027: 2.910MW; năm 2028: 3.240MW; năm 2029: 3.350MW; năm 2030: 3.530MW. Tổng cộng đến năm 2030 tổng công suất điện từ các nguồn NLTT (không kể thủy điện lớn và vừa) là 27.000MW.
Còn Trong Quy hoạch than điều chỉnh số 403/2016: huy động vào Quy hoạch nguồn than cấp tài nguyên (TN) dự tính 638,5 triệu tấn (bằng 20,9% tổng TN, trữ lượng (TL) huy động vào quy hoạch); TN dự báo 880,4 triệu tấn (bằng 28,9%); tổng cộng TN dự tính và dự báo chiếm gần 50% tổng TN, TL huy động vào Quy hoạch. Hoặc nhu cầu than nhập khẩu đến năm 2020: 37 triệu tấn, năm 2025: 80 triệu tấn và đến 2030: trên 100 triệu tấn, nhưng không rõ nhập từ đâu, bằng cách nào, căn cứ vào đâu và có chắc chắn hay không.
Thứ tư: Quy hoạch một số phân ngành năng lượng dựa vào những căn cứ đã lỗi thời. Ví dụ cả 2 Quy hoạch than số 60/2012 và số 403/2016 đều được xây dựng căn cứ vào Chiến lược phát triển ngành than năm 2008, trong khi nhiều Mục tiêu và Định hướng phát triển đề ra trong Chiến lược này đã quá lỗi thời.
Thứ năm: Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định hướng đến 2020 phê duyệt theo Quyết định số 176/2004/QĐ-TTg không được quy hoạch điện nào lấy làm căn cứ xây dựng quy hoạch.
Thứ sáu: Cách tiếp cận và phương pháp lập chiến lược, quy hoạch chưa phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và hội nhập ngày càng sâu rộng nên có sự biến động mạnh cả về tần số, cả về biên độ và đảo chiều thất thường. Cụ thể là cách tiếp cận và phương pháp xây dựng quy hoạch hiện hành đang theo kiểu phương pháp xây dựng kế hoạch hàng năm.
Thông thường chỉ xây dựng 3 phương án: cao, trung bình (cơ sở) và thấp; hoặc 2 phương án: cao và cơ sở; giữa các phương án chênh lệch nhau không đáng kể trong dài hạn; đặc biệt là thiếu các kịch bản ứng phó với các sự biến động tăng lên, giảm xuống rất mạnh trong kỳ chiến lược, quy hoạch. Đây là một trong những nguyên nhân chính đưa đến thực trạng là các quy hoạch nói chung và quy hoạch các phân ngành năng lượng nói riêng vừa phê duyệt xong, thậm chí đang trong quá trình xem xét phê duyệt thì đã bất cập so với thực tế; chỉ sau một vài năm đã bắt đầu tiến hành xem xét, điều chỉnh và trên thực tế thay vì lẽ ra quy hoạch có vai trò dẫn dắt thực tế đi theo định hướng đã đề ra thì ngược lại quy hoạch lại chạy theo thực tế và chỉ làm nhiệm vụ “hợp thức hóa thực tế”.
Ví dụ, năm 2006 phê duyệt “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025” theo Quyết định số 110/2007/QĐ-TTg; thì năm 2011 phê duyệt “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030” theo Quyết định số 1208/2011/QĐ-TTg và đến năm 2016 phê duyệt “Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030” theo Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg.
Hoặc năm 2012 phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030” theo Quyết định số 60/2012/QĐ-TTg và năm 2016 phê duyệt “Điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030” theo Quyết định số 403/2016/QĐ-TTg.
Như vậy, chỉ sau 1 năm phê duyệt đã bắt đầu xem xét điều chỉnh, hoặc xây dựng lại quy hoạch. Hiện nay đã bắt đầu tiến hành lập lại quy hoạch điện mới (gọi là Quy hoạch điện VIII) thay thế cho Quy hoạch điện VII điều chỉnh số 428/2016 và theo đó sẽ lập lại quy hoạch than, vv...
Thứ bảy: Theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017:
Căn cứ để xây dựng quy hoạch ngành quốc gia gồm có: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực trong cùng giai đoạn phát triển; Quy hoạch cao hơn; Quy hoạch thời kỳ trước.
Ngành năng lượng và liên quan đến ngành năng lượng có các loại quy hoạch sau: Quy hoạch tổng thể về năng lượng; Quy hoạch phát triển điện lực; Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt; Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng phóng xạ (trong đó có quặng urani làm nguyên liệu nhà máy điện hạt nhân); Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản (trong đó có than, dầu, khí); Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử; Quy hoạch phát triển điện hạt nhân (cả 2 Quy hoạch này theo quy định của Luật Năng lượng Nguyên tử).
Theo quy định tại Điều 16, căn cứ xây dựng nhiệm vụ lập quy hoạch ngành quốc gia (Dự thảo lần 2 Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch) gồm có:
1/ Kế hoạch lập quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
2/ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển ngành, các nghị quyết mang tính dài hạn của Đảng.
3/ Các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
4/ Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước có liên quan.
5/ Kết quả thực hiện quy hoạch thời kỳ trước.
Với các quy định nêu trên: (1) Không rõ liệu có phải xây dựng chiến lược năng lượng quốc gia và chiến lược các phân ngành năng lượng như hiện hành hay không hay chỉ cần Quy hoạch tổng thể về năng lượng là đủ? (2) Việc điều tra, khai thác, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo (sinh khối, địa nhiệt, gió, mặt trời, các loại năng lượng đại dương: sóng biển, thủy triều, chênh lệch nhiệt đại dương, dòng chảy đại dương, vv...) không rõ thuộc đối tượng điều chỉnh của Quy hoạch tổng thể về năng lượng hay loại quy hoạch nào? vv...
2/ Các nguồn tài nguyên năng lượng chưa được điều tra, đánh giá, xác định trữ lượng khả dụng theo yêu cầu làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch nói chung và các dự án đầu tư khai thác, sử dụng nói riêng.
Cụ thể là:
Mặc dù Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đề ra mục tiêu: “Nâng cao độ chính xác trong việc đánh giá trữ lượng các nguồn năng lượng sơ cấp (than, dầu khí, thuỷ điện và u-ra-ni-um)” và đề ra định hướng phát triển năng lượng tái tạo: “cần có kế hoạch và đầu tư thích đáng cho điều tra bổ sung các số liệu, tiến tới quy hoạch, phân vùng các dạng năng lượng này để có kế hoạch đầu tư, khai thác hợp lý”. Hoặc Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt theo Quyết định số 2068/2015/QĐ-TTg đề ra mục tiêu, định hướng phát triển NLTT nói chung và phát triển điện từ nguồn NLTT nói riêng rất cao. Hoặc Quy hoạch điện số 428/2016 đề ra mục tiêu đến năm 2030 tổng công suất điện từ các nguồn NLTT (không kể thủy điện lớn và vừa) là 27.000 MW nhưng không nêu rõ căn cứ vào tiềm năng trữ lượng các nguồn năng lượng tái tạo như thế nào, bao nhiêu và ở đâu.
Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao nhiệm vụ: “Chỉ đạo việc phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức khảo sát, thăm dò đánh giá trữ lượng các nguồn tài nguyên năng lượng”. Nhưng đến nay, Bộ Công Thương cũng chỉ mới đang phối hợp với các tổ chức như: WB, GIZ và KfW tiến hành Chương trình đo gió tại khoảng 30 điểm trên toàn quốc, còn năng lượng mặt trời chủ yếu mới có số liệu chung về số giờ nắng bình quân năm và cường độ bức xạ kWh/m2 ngày theo các vùng miền mà “chưa chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức điều tra, đánh giá tiềm năng các nguồn NLTT trong cả nước” để xây dựng cơ sở dữ liệu tiềm năng các nguồn NLTT đầy đủ phục vụ “xây dựng quy hoạch phát triển các nguồn NLTT quốc gia, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt” như nhiệm vụ được giao trong Chiến lược phát triển NLTT nêu trên.
Ngoài ra, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn chuyên ngành, tiêu chuẩn thiết kế, vận hành... đối với lĩnh vực NLTT nói chung và điện NLTT nói riêng còn thiếu và chưa đồng bộ.
Nguồn tài nguyên than có mức độ thăm dò còn rất hạn chế, độ tin cậy rất thấp. Theo Quy hoạch than số 403/2016 tổng tài nguyên than đã được điều tra đánh giá và thăm dò tính đến 31/12/2015 là 48,88 tỉ tấn. Trong đó, trữ lượng (TL) là 2,26 tỉ tấn (chiếm 4,62%), tài nguyên (TN) chắc chắn: 161 triệu tấn (chiếm 0,33%) và TN tin cậy là 1.137 triệu tấn (chiếm 2,33%); tổng cộng là 7,23%, còn lại là TN dự tính là 2,7 tỉ tấn (chiếm 5,5%), TN dự báo 42,6 tỉ tấn (chiếm 87,2%), tổng cộng là 92,77%. Trong khi đó, việc đầu tư thăm dò nâng cấp trữ lượng có nhiều rào cản từ việc cấp phép, chồng lấn quy hoạch của địa phương nên thực hiện chậm so với tiến độ đề ra trong Quy hoạch than 403/2016. Hoặc để đáp ứng nhu cầu than trong nước Quy hoạch đề ra nhiệm vụ nhập khẩu than với khối lượng lớn hàng chục triệu tấn đến 100 triệu tấn mỗi năm nhưng không rõ nhập khẩu từ đâu, bao nhiêu, nhập như thế nào, cho hộ tiêu thụ nào, vv...
Nguồn tài nguyên năng lượng sinh khối có tiềm năng lớn nhưng cũng chưa được điều tra, đánh giá, xác định trữ lượng khả dụng (khả thi về kỹ thuật và kinh tế) để lập quy hoạch khai thác, sử dụng. Các nguồn tài nguyên năng lượng địa nhiệt, urani, năng lượng đại dương, vv... cũng trong tình trạng tương tự, thậm chí còn tệ hơn.
3/ Tình hình cung cầu năng lượng tiềm ẩn một số rủi ro đối với đảm bảo an ninh năng lượng.
Thứ nhất: Các nguồn tài nguyên năng lượng chưa được điều tra, đánh giá, xác định trữ lượng khả dụng như đã nêu trên. Điều đó có nguy cơ ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu về sản lượng đã đề ra trong các quy hoạch của các phân ngành năng lượng: điện, than, dầu, khí và năng lượng tái tạo.
Thứ hai: Nhập khẩu than với quy mô hàng chục đến trăm triệu tấn, nhưng đang thực hiện theo kiểu “mò cua, bắt ốc” được chăng hay chớ mà chưa có chiến lược đồng bộ từ khâu nghiên cứu tìm kiếm nguồn than, thương thảo, ký kết hợp đồng dài hạn đến tổ chức thực hiện, kể cả đầu tư ra nước ngoài khai thác than, xây dựng hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than nhằm đảm bảo nhập khẩu than ổn định với giá cả hợp lý.
Thứ ba: Chưa có quy hoạch xây dựng hệ thống kho dự trữ than quốc gia nhằm ứng phó với sự bất ổn trong cung ứng nguồn than bởi các biến động thị trường và phi thị trường ngày càng khốc liệt.
Thứ tư: Nhiều dự án nhiệt điện than bị chậm tiến độ, sẽ có nguy cơ ảnh hưởng đến việc cung ứng điện đáp ứng nhu cầu trong trường hợp tình trạng khô hạn kéo dài làm giảm sản lượng thủy điện hiện đang chiếm trên 40% tổng sản lượng điện cả nước.
Thứ năm: Cơ chế chính sách đối với sản xuất kinh doanh năng lượng nói chung, trong đó có sản xuất kinh doanh than hiện đang nửa vời giữa theo cơ chế thị trường và theo cơ chế kế hoạch hóa, chưa gắn với đảm bảo an ninh năng lượng, chưa theo đúng mục tiêu “hình thành và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh” đề ra trong Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia.
Kỳ tới: Kiến nghị thực hiện năm nhóm giải pháp
Lưu ý: Mọi trích dẫn và sử dụng bài viết này cần được sự đồng ý của tác giả thông qua Tạp chí Năng lượng Việt Nam.