RSS Feed for VINANST-16 - Đóng góp cho chiến lược phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ tư 15/10/2025 12:47
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

VINANST-16 - Đóng góp cho chiến lược phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử Việt Nam

 - Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ 16 (VINANST-16), tổ chức tại Đà Nẵng (từ ngày 8-10/10/2025) đã ghi dấu ấn mạnh mẽ, với sự tham gia của gần 400 đại biểu Việt Nam và hơn 90 đại biểu quốc tế. Sự hiện diện đông đảo của các chuyên gia từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Thụy Điển, Trung Quốc và nhiều quốc gia khác đã khẳng định uy tín, vị thế ngày càng cao của Việt Nam trong lĩnh vực khoa học, công nghệ hạt nhân.
Tính ‘độc lập’ của cơ quan pháp quy hạt nhân và hoạt động hỗ trợ kỹ thuật trong bối cảnh Việt Nam Tính ‘độc lập’ của cơ quan pháp quy hạt nhân và hoạt động hỗ trợ kỹ thuật trong bối cảnh Việt Nam

Trong những ngày qua, trên mạng xã hội, có ý kiến cho rằng: Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) không thể vừa làm Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật (TSO) cho cơ quan pháp quy hạt nhân, vừa hỗ trợ kỹ thuật cho chủ đầu tư/tổ chức vận hành. Trao đổi, làm rõ thêm nội dung này, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam đặt ra ba câu hỏi, với các phân tích, trả lời, kết luận dưới đây để chúng ta cùng tham khảo.

VINANST-16 - Đóng góp cho chiến lược phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử Việt Nam
Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ 16 (VINANST-16) tại Đà Nẵng.

1. Mở đầu:

Với 220 báo cáo khoa học, trong đó có 131 báo cáo trình bày trực tiếp và 89 báo cáo dán bảng, hội nghị đã trở thành diễn đàn khoa học quan trọng để trao đổi kết quả nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm và thảo luận về các định hướng phát triển tương lai.

Các chủ đề thảo luận trải rộng từ vật lý hạt nhân cơ bản, công nghệ lò phản ứng, điện hạt nhân, đến ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong y tế, công nghiệp, nông nghiệp và bảo vệ môi trường, phản ánh bức tranh toàn diện của lĩnh vực hạt nhân Việt Nam.

Các chuyên gia đại diện cho IAEA đã tổ chức một phiên họp đặc biệt tại hội nghị, thể hiện sự quan tâm và ủng hộ cho thành công của hội nghị.

2. Mục đích và phạm vi của hội nghị:

Mục đích:

VINANST-16 nhằm thúc đẩy hợp tác, chia sẻ những tiến bộ và giải quyết các thách thức trong khoa học hạt nhân, tạo diễn đàn cho các nhà khoa học Việt Nam, cũng như các chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ hạt nhân trao đổi thông tin và trình bày các kết quả nghiên cứu mới nhất.

Phạm vi:

VINANST-16 bao gồm nhiều chủ đề đa dạng về khoa học, công nghệ và an toàn hạt nhân, hội nghị có các bài thuyết trình, hội thảo và cuộc họp bên lề nêu bật những đổi mới và kết quả nghiên cứu từ nhiều chủ đề khác nhau, chẳng hạn như: Lò phản ứng hạt nhân, năng lượng hạt nhân, vật lý hạt nhân cơ bản, đo lường và an toàn bức xạ, ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong chăm sóc sức khỏe, nông nghiệp, công nghiệp, hóa học phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân trong cộng đồng khoa học hạt nhân.

3. Thông tin chung:

Ngoài các phiên họp toàn thể và phiên đặc biệt của IAEA, hội nghị có 1,5 ngày làm việc riêng theo các chủ đề khác nhau, bao gồm: Các tiểu ban A, B, C, D1, D2, D3, D4 và E, để có thể thảo luận sâu hơn vào các nội dung kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của các đại biểu.

- Tiểu ban A: Lò phản ứng, điện hạt nhân và đào tạo nguồn nhân lực.

- Tiểu ban B: Vật lý hạt nhân, số liệu hạt nhân, máy gia tốc và phân tích hạt nhân.

- Tiểu ban C: Ghi đo bức xạ, an toàn bức xạ và quan trắc môi trường.

- Tiểu ban D1: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong y tế.

- Tiểu ban D2: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp và các lĩnh vực khác.

- Tiểu ban D3-D4: Ứng dụng công nghệ bức xạ, kỹ thuật hạt nhân trong nông nghiệp.

- Tiểu ban E: Hóa phóng xạ, hóa bức xạ và hóa học hạt nhân, chu trình nhiên liệu, công nghệ vật liệu hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ.

Nhận xét chung là số các đại biểu Việt Nam tăng là do:

- Nhận thức về vai trò của năng lượng hạt nhân và khoa học hạt nhân, cũng như các ứng dụng của công nghệ hạt nhân đang ngày càng được nâng cao.

- Bên cạnh đội ngũ nghiên cứu viên cao cấp, thế hệ trẻ cũng đang trưởng thành.

- Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED).

- Các đề tài nghiên cứu cấp bộ của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế…

- Các đề tài nghiên cứu của viện/trường đại học.

- Các chương trình thạc sĩ và tiến sĩ trong nước.

- Học bổng thạc sĩ và tiến sĩ ở nước ngoài (Hàn Quốc, Nhật Bản, Liên bang Nga, các nước châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan…) và Quỹ VINIF dành cho nghiên cứu sinh tiến sĩ.

Trong khi số lượng đại biểu nước ngoài tham dự tăng mạnh, phản ánh việc Việt Nam coi trọng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ hạt nhân.

Điểm nổi bật của hội nghị là định hướng nghiên cứu được coi trọng nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Nhà nước đối với khoa học nói chung và ngành hật nhân nói riêng. Cụ thể như việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Phát triển Ứng dụng Năng lượng Nguyên tử ở Việt Nam (theo Quyết định số 245/QĐ-TTg ngày 5/3/2025).

Các đại biểu tham gia hội thảo mong mỏi để có được dự thảo chính sách và chiến lược quốc gia trình ban hành thể hiện được ước vọng vươn lên của toàn ngành.

Một số báo cáo tại hội nghị cho thấy vai trò của các thiết bị lớn và sự cố gắng tận dụng các điều kiện khoa học còn khiêm tốn ở Việt Nam, như lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và máy gia tốc Pelletron 5SDH (tại Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội). Các cơ sở/thiết bị này đã được tận dụng để nghiên cứu vật lý hạt nhân ứng dụng và cơ bản như: Thí nghiệm trực tuyến, phát triển và thiết lập DAQ, đo lường tương quan và đa tham số, mô phỏng, phân tích dữ liệu.

Hội nghị cũng làm rõ sự cần thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế để tận dụng tổ hợp quy mô lớn hiện có dựa trên máy gia tốc và lò phản ứng nghiên cứu.

Ví dụ như: JINR tại Dubna, Liên bang Nga (nơi Việt Nam là thành viên). Ở đó có các cơ sở tiên tiến/quy mô lớn: Lò phản ứng xung IBR-2, tổ hợp máy gia tốc hạt (cyclotron U-400M, Microtron MT-25…), tổ hợp NICA và các cơ sở nghiên cứu khác rất có giá trị đối với phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, đặc biệt là cho nghiên cứu vật lý hạt và cho Dự án CNST (Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân với lò phản ứng nghiên cứu mới 10 MW) mới với RR đa năng. Theo phân bổ cho các quốc gia thành viên, Việt Nam có thể cử khoảng 50 cán bộ nghiên cứu đến làm việc tại JINR (với thời gian từ 3 tháng đến 4 năm). Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam chỉ có 40 cán bộ làm việc tại JINR.

Với kế hoạch xa hơn, khi Lò phản ứng nghiên cứu nhanh đa năng (MBIR) dự kiến ​​đưa vào vận hành năm 2028 - Việt Nam nên chuẩn bị ngay từ bây giờ để có thể cử cán bộ có năng lực và chuyên môn phù hợp để tham gia.

Các cơ sở khác tại các quốc gia và tổ chức quốc tế có thể sẵn sàng đón nhận sự hợp tạc của các chuyên gia Việt Nam như:

- RIBF và BIGRIBF tại RIKEN: Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đã nghiên cứu và tham gia các nhóm nghiên cứu của RIKEN, Việt Nam cần thúc đẩy sự hợp tác này.

- CERN (ALICE và LHC): Bắt đầu thảo luận về khả năng trở thành thành viên quan sát.

- GSI tại Damstard, ALTO, SPIRAL 2 tại Pháp; nhiều tổ hợp lớn tại Hàn Quốc (máy gia tốc Pohang, dự án RAON); Trung Quốc (Trung tâm nghiên cứu nguồn neutron…).

- Tham gia “Hợp tác quốc tế về thư viện dữ liệu phản ứng hạt nhân thực nghiệm (EXFOR)”.

Cuối cùng (nhưng không kém phần quan trọng) là hội nghị ủng hộ việc xây dựng một nhóm lý thuyết hạt nhân mạnh để hỗ trợ các đề xuất thực nghiệm, diễn giải dữ liệu, ứng dụng AI trong lý thuyết hạt nhân.

4. Báo cáo tại các tiểu ban:

Hội nghị chú ý nhiều đến điện hạt nhân và SMR:

Một số nghiên cứu được chú ý, bao gồm:

1. Tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp tính toán (CFD, cấp hệ thống…) để tính toán neutron, động học, thủy nhiệt và phân tích an toàn. Các đại biểu lưu ý việc cần có các cơ sở thực nghiệm.

2. Nắm vững mã mô hình hóa và mô phỏng cho nhà máy điện hạt nhân (MCNP, Serpent, Relaps, Ansys, Saphire, OpenFOAM…).

3. Tiếp tục phát triển AI và các công nghệ tính toán tiên tiến phục vụ phân tích an toàn cho nhà máy điện hạt nhân.

4. Xây dựng chương trình quốc gia phát triển SMR và Lò phản ứng Gen IV.

Về lò phản ứng nghiên cứu:

Hội nghị được nghe và thảo luận các báo cáo liên quan đến:

1. Thúc đẩy dự án CNST (Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân với lò phản ứng nghiên cứu mới 10 MW) và chuẩn bị nguồn nhân lực cho dự án, chú trọng cả vận hành an toàn và sử dụng hiệu quả lò nghiên cứu (đường truyền chùm tia, cơ sở thí nghiệm, nghiên cứu, phát triển và sản xuất dược phẩm phóng xạ…).

2. Tiếp tục nghiên cứu về vật lý hạt nhân, vật lý lò phản ứng (neutron, động học, thủy nhiệt) và thúc đẩy các thí nghiệm khác nhau trên lò phản ứng nghiên cứu Đà Lạt hiện có, cũng như các lò phản ứng nghiên cứu khác trên thế giới nếu có thể.

Đối với ghi đo bức xạ, an toàn bức xạ và quan trắc môi trường, các báo cáo định hướng vào những nội dung sau:

1. Kết hợp mô phỏng và đo lường trong phân tích và giám sát phóng xạ môi trường.

2. Duy trì và nâng cấp các phòng thí nghiệm hiệu chuẩn đo lường phóng xạ.

3. Phát triển các phương pháp lấy mẫu, xử lý mẫu và phân tích phóng xạ môi trường.

4. Nâng cấp và hoàn thiện mạng lưới quốc gia về quan trắc phóng xạ môi trường và cảnh báo sớm.

5. Tiếp tục nghiên cứu sử dụng các công cụ toán học, mã mô phỏng để hỗ trợ đánh giá liều bức xạ.

6. Tiếp tục sử dụng mã tính toán mô phỏng sự lan truyền bức xạ ở cả tầm trung và tầm ngắn cho một số sự cố giả định (trong khí quyển và môi trường biển).

7. Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật AI trong quan trắc và phân tích phóng xạ môi trường.

Đối với ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp:

Các báo cáo trình bày các kết quả mới, bao gồm:

1. Hệ thống NDE, NDT đa phương thức (kiểm tra siêu âm, nhiệt kế laser hồng ngoại…).

2. 4.0 NDE, NDT sử dụng AI và bản sao số.

3. Thiết bị phát xạ bức xạ thay thế nguồn phóng xạ.

4. Chất đánh dấu - Phát triển chất đánh dấu phân vùng để đánh giá trữ lượng dầu khí; sử dụng chất đánh dấu hóa học và nano thay thế nguồn phóng xạ.

5. Chụp cắt lớp và hình ảnh bức xạ - Cargo Scan, chụp cắt lớp 2D tích hợp AI.

Đối với ứng dụng bức xạ, kỹ thuật hạt nhân trong nông nghiệp và sinh học, các nghiên cứu mới được trình bày tại hội nghị:

1. Thúc đẩy công nghệ E-Beam (chùm tia điện tử) trong tổng hợp vật liệu và xử lý bức xạ.

2. Kỹ thuật hạt nhân và công nghệ bức xạ cho nông nghiệp sạch/hữu cơ - Xu hướng mới cho cuộc sống và sức khỏe tốt hơn của con người.

3. Công nghệ bức xạ để phát triển vật liệu mới (ví dụ Polyme dẫn điện, zeolit ​​chiếu xạ…).

4. Đột biến do bức xạ (ví dụ ứng dụng trên Trichoderma spp); chọn tạo đột biến.

5. Truy xuất nguồn gốc.

Đối với ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong bảo vệ môi trường, hội nghị có các báo cáo có thể giải quyết vấn đề hiện hữu ở Việt Nam như:

1. Kỹ thuật hạt nhân để phân tích các vấn đề môi trường (không khí, nước, đại dương…).

2. Nhựa NUTECH, Carbon xanh (hệ sinh thái ven bờ).

3. Thủy văn phóng xạ và nước ngầm (đặc biệt là SDG: Nghiên cứu dòng nước ngầm chảy ra biển), các vấn đề về sự nóng lên toàn cầu.

4. Phân bố đất và tối ưu hóa việc sử dụng đất.

5. Sử dụng đồng vị bền và các phương pháp liên quan khác cho các lĩnh vực nghiên cứu liên quan đến biến đổi khí hậu.

Đối với ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong y tế - Đây là những hướng nghiên cứu mà Việt Nam đã đạt nhiều thành công nổi bật:

1. Nghiên cứu sản xuất đồng vị phóng xạ mới dựa trên máy gia tốc hạt Dalat và Cyclotron, đặc biệt hướng đến dược phẩm phóng xạ trị liệu (điều trị và chẩn đoán).

2. Đa dạng hóa dược phẩm phóng xạ dựa trên máy gia tốc hạt, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển dược phẩm phóng xạ mới.

3. Ứng dụng AI trong chụp ảnh hạt nhân.

4. Mô phỏng tế bào để lập kế hoach điều trị.

5. Cần và nên quan tâm đến các nhà vật lý y khoa.

6. Liệu pháp proton nên được đề xuất trong tương lai gần (đầu tư nước ngoài).

Hóa phóng xạ, hóa bức xạ và hóa học hạt nhân, chu trình nhiên liệu, công nghệ vật liệu hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ. Với một chương trình điện hạt nhân vừa phải theo dự kiến của Việt Nam, đây là những nội dung đang được chú ý nghiên cứu:

1. Đất hiếm (RE):

- Phát triển và nội địa hóa các công nghệ xử lý lõi; chuyển giao cho doanh nghiệp.

- Mở rộng quy mô xử lý RE cho các loại quặng RE khác nhau (bastnäsite, monazit, hấp phụ ion…).

- Tăng cường an toàn phóng xạ và môi trường trên toàn bộ chuỗi giá trị RE.

2. Titan và cát sa khoáng:

- Thúc đẩy chế biến titan và cát biển (ví dụ nâng cấp ilmenit).

- Tăng cường quản lý an toàn và môi trường.

3. Nhiên liệu hạt nhân:

- Đề xuất Chương trình Quốc gia về Nhiên liệu hạt nhân để hỗ trợ việc triển khai lò phản ứng trong tương lai.

4. Chất thải phóng xạ:

- Nâng cao năng lực quản lý chất thải.

- Phát triển các vật liệu chức năng mới để xử lý và cố định.

Về thiết kế, chế tạo các thiết bị bức xạ và ghi đo bức xạ. Vấn đề nội địa hóa thiết kế, chế tạo thiết bị luôn được các cán bộ nghiên cứu quan tâm. Một số hướng cụ thể như sau:

1. Thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng công nghệ detector mới (Diode Si-PIN, SiPM, detector mảng, timepix) và các phương pháp mới (FPGA, DSP...) để số hóa hoàn toàn điện tử hạt nhân.

2. Nuôi cấy tinh thể để chế tạo detector.

3. Công nghệ máy gia tốc tự chủ (ưu tiên hàng đầu là máy gia tốc electron và cyclotron năng lượng thấp).

5. Hợp tác quốc tế luôn được Việt Nam ưu tiên thúc đẩy:

Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế có liên quan, đặc biệt là các đối tác truyền thống: IAEA, RCA, FNCA; JINR (Liên bang Nga); JAEA, JNED, RIKEN (Nhật Bản); RCARO, KAERI, KEPCO (Hàn Quốc; Ấn Độ; Mỹ; các nước Đông Nam Á; Cộng đồng châu Âu…

6. Giải thưởng của hội nghị:

Tiếp nối truyền thống, tại phiên bế mạc, hội nghị đã trao tặng các giải thưởng:

1. Giải thưởng của Hội Hạt nhân Việt Nam.

2. Giải thưởng cho Báo cáo xuất sắc nhất của sinh viên.

3. Giải thưởng cho Báo cáo dán bảng xuất sắc nhất.

4. Giải thưởng cho Báo cáo xuất sắc nhất của nhà khoa học trẻ.

5. Giải thưởng chính VINANST-16.

7. Kết luận:

VINANST-16 đã thành công tốt đẹp, thể hiện rõ tinh thần hợp tác, đổi mới và phát triển của cộng đồng khoa học hạt nhân Việt Nam. Những báo cáo và thảo luận tại hội nghị đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về hiện trạng nghiên cứu, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp và định hướng quan trọng cho sự phát triển của ngành trong thời gian tới.

Thành công của hội nghị không chỉ đến từ số lượng báo cáo khoa học chất lượng, mà còn từ sự gắn kết giữa các thế hệ nhà khoa học, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng chương trình năng lượng hạt nhân an toàn, hiệu quả.

VINANST-16 là bước tiến quan trọng, tạo tiền đề cho việc hình thành các chiến lược quốc gia về nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phục vụ phát triển bền vững đất nước./.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động