RSS Feed for Nhận định, Phản biện Thứ năm 21/11/2024 20:00
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR24) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero

 - Ngày 19/6/2024, tại Hà Nội, Bộ Công Thương phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam và Cục Năng lượng Đan Mạch tổ chức công bố “Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam - Đường đến phát thải ròng bằng không”. Dưới đây, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổng hợp một số nội dung chính, kèm theo các phân tích và nhận xét ban đầu về Báo cáo này.
Lộ trình Net zero của Việt Nam - Nghiên cứu và khuyến nghị từ quốc tế Lộ trình Net zero của Việt Nam - Nghiên cứu và khuyến nghị từ quốc tế

McKinsey - một trong ba công ty tư vấn chiến lược lớn nhất thế giới (Big Three) của Hoa Kỳ vừa cập nhật báo cáo tựa đề “Hoạch định lộ trình hoàn thành mục tiêu phát thải Net zero cho Việt Nam” (Charting a path for Vietnam to achieve its Net-zero goals). Tạp chí Năng lượng Việt Nam tóm tắt các nghiên cứu và khuyến cáo chính của McKinsey liên quan đến lĩnh vực năng lượng để bạn đọc tham khảo.

Quy hoạch điện VIII -  Một số chính sách cần bổ sung, ban hành ngay cho 16 hạng mục cơ bản Quy hoạch điện VIII - Một số chính sách cần bổ sung, ban hành ngay cho 16 hạng mục cơ bản

Quy hoạch điện VIII được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg, ngày 15/5/2023. Đã 1 năm trôi qua, nhưng hiện tại công việc triển khai thực hiện các dự án vẫn còn nhiều vướng mắc. Để gợi ý giải pháp tháo gỡ bế tắc này, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam đã nghiên cứu, xem xét 16 hạng mục cơ bản trong Quy hoạch và bước đầu đề xuất ‘bổ sung ngay’, ‘ban hành ngay’ một số văn bản quy phạm pháp luật để ‘triển khai ngay’ các dự án.

Phần 1 - Tổng quan ngành năng lượng Việt Nam và các thách thức nhằm tiến tới trung hòa carbon:

“Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam - Đường đến phát thải ròng bằng không” (EOR24) là ấn phẩm thứ tư trong chuỗi các các Báo cáo được xây dựng trong khuôn khổ Chương trình Hợp tác Đối tác Năng lượng Việt Nam - Đan Mạch và là chương trình hợp tác lâu dài giữa Việt Nam - Đan Mạch trong lĩnh vực chuyển đổi năng lượng xanh.

Báo cáo đã trình bày các kịch bản phát triển của hệ thống năng lượng Việt Nam đến năm 2050 và tập trung vào việc phân tích các lộ trình khả thi để Việt Nam đạt được cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050 với hiệu quả về chi phí. Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không, Việt Nam cần có những nỗ lực nhanh chóng, mạnh mẽ và bền vững. Điều này không chỉ quan trọng trong việc giải quyết nhu cầu năng lượng ngày càng tăng mà còn giúp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khi việc tiếp cận năng lượng tái tạo ngày càng trở nên quan trọng trong các quyết định đầu tư.

Trong vòng vài thập kỷ gần đây, Việt Nam là nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hàng năm đạt từ 6-7%. Trong giai đoạn 2020-2023, mặc dù đại dịch Covid-19 hoành hành khắp nơi trên thế giới và tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, nhưng nền kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi, phát triển khả quan so với nhiều nền kinh tế khác. Việt Nam đang nỗ lực mạnh mẽ để hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Trong bối cảnh đó, nhu cầu năng lượng và nhu cầu điện của Việt Nam trong những năm tới được dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.

1. Tổng cung nguồn năng lượng sơ cấp:

Giai đoạn 2010-2022, tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp (TPES) tăng 5,6%/năm, đạt 98,9 MTOE vào năm 2022. Riêng năm 2022, than chiếm tỷ trọng lớn nhất (43,7%), đứng thứ hai là dầu (27,7%), khí tự nhiên năng lượng tái tạo (gồm cả thủy điện) là 21,1%. Cường độ năng lượng sơ cấp năm 2022 đạt 275 kgOE/1.000 USD. Mặc dù đã giảm mạnh trong giai đoạn 2010-2022, nhưng vẫn cao hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Chỉ số Herfindahl - Hirschmann Index (HHI) thể hiện mức độ đa dạng hóa nguồn năng lượng trong TPES đã giảm xuống còn 3.173 (chỉ số HHI càng thấp thì mức độ đa dạng càng cao). Tuy nhiên, chỉ số này của chúng ta vẫn còn cao. Điều này cho thấy mức độ đa dạng hóa vẫn còn phụ thuộc vào một số ít loại hình nguồn điện (chẳng hạn như than).

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero
Hình 1: Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp.

2. Khai thác năng lượng trong nước:

Dầu thô, than đá, khí, thủy điện và năng lượng tái tạo (NLTT) là những nguồn năng lượng được khai thác trong nước. Tổng lượng năng lượng khai thác trong năm 2022 đạt 61.842 KTOE, tăng đáng kể so với năm 2021 là 58.380 KTOE. Cơ cấu khai thác năng lượng trong nước gồm: Dầu thô (14,8%), khí (11,8%), than (39,2%), NLTT (không bao gồm thủy điện) là 20,6% (hình 2).

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero
Hình 2: Khai thác năng lượng trong nước.

3. Xuất, nhập khẩu năng lượng:

Kể từ năm 2015, Việt Nam đã trở thành nước nhập khẩu tịnh năng lượng. Năng lượng nhập khẩu có xu hướng tăng dần trong giai đoạn 2015-2020 và đạt mức nhập khẩu cao nhất vào năm 2020 với 53.605 và đang có xu hướng giảm dần từ sau khi đạt đỉnh nhập khẩu năm 2020. Mức độ phụ thuộc năng lượng nhập khẩu trong TPES tăng từ 6,4% năm 2015 lên 47,9% vào năm 2020 và giảm xuống còn 35,4% vào năm 2022. Xuất khẩu năng lượng giảm đã khiến cho tỷ lệ nhập khẩu tịnh trên năng lượng sơ cấp ngày càng cao (hình 3).

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero

4. Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng:

Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng (TFEC) năm 2022 đạt 71.995 KTOE, tăng 5,4%/năm trong giai đoạn 2010-2022. Cường độ tiêu thụ năng lượng cuối cùng trên GDP năm 2022 là 315 kgOE/1.000USD - thể hiện xu hướng giảm trong giai đoạn 2010-2022, so với mức 357 kgOE/1.000USD năm 2010. Về cơ cấu tiêu thụ nhiên liệu cho thấy tỷ trọng điện trong TFEC tăng nhanh, thể hiện xu hướng điện hóa trong các ngành, lĩnh vực (hình 4).

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero
Hình 4: Cơ cấu năng lượng cuối cùng theo dạng nhiên liệu.

Về cơ cấu tiêu thụ theo ngành biểu hiện như sau: Ngành công nghiệp có tỷ trọng tăng mạnh nhất là 51,9% năm 2022, ngành giao thông vận tải có đà phục hồi sau khi chịu tác động của đại dịch Covid-19, đạt 20,8% năm 2022 (hình 5).

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero
Hình 5: Cơ cấu năng lượng cuối cùng theo ngành.

5. Hệ thống điện:

Tổng công suất lắp đặt đến cuối năm 2022 là 80,7 GW. Trong đó, nhiệt điện than (chiếm 32,3%), thủy điện lớn (21,9%), tua bin khí (9,1%), thủy điện nhỏ (6,6%), NLTT (gió, mặt trời, không tính điện mặt trời mái nhà) là 27,3% và các nguồn khác - bao gồm nhiệt điện dầu, điện nhập khẩu (2,7%).

Tổng sản lượng điện phát từ hệ thống đạt 271,1 TWh. Trong đó, nhiệt điện than chiếm tỷ trọng lớn nhất (38%), thủy điện (35%), nhiệt điện khí (10,8%) và điện gió, mặt trời (13,7%). Phụ tải đỉnh năm đạt 45,4 GW.

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero
Hình 6: Tổng công suất đặt của hệ thống năm 2022.

Mục tiêu chính sách:

Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số chính sách then chốt cho phát triển năng lượng bền vững với bốn trụ cột chính là: Tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, thị trường năng lượng và biến đổi khí hậu.

Mục tiêu

2020

2025

2030

2045

2050

Năng lượng tái tạo

Tỷ trọng NLTT trong nguồn cung năng lượng sơ cấp

15-20% (NQ 55 và CLNLQG)

25-30% (NQ55) 65-70% (CLNLQG)

Tiết kiệm năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường

Mức tiết kiệm năng lượng trong nhu cầu năng lượng cuối cùng

5-7% (VNEPP3)

8-10% (VNEPP3)

14-20%

(CLNLQG)

Giảm phát thải KNK so với kịch bản phát triển bình thường

Giảm phát thải KNK

15% (NQ55)

15-35% (CTNLQG)

20% (NQ55)

70-80% (CTNLQG)

Cam kết Net zero tại COP 26

Phát thải ròng bằng 0

Kết quả nghiên cứu cho thấy: Việc đạt mức phát thải đỉnh CO2 vào năm 2030 là có hiệu quả về kinh tế và khuyến nghị khử carbon sớm trong ngành điện là điều kiện tiên quyết để chuyển dịch hiệu quả trong ngành giao thông và công nghiệp. Tăng trưởng kinh tế xanh tạo điều kiện cho con đường phát triển dễ dàng hơn.

Triển vọng Năng lượng Việt Nam (EOR23) - Gợi ý lộ trình hiệu quả tới Net zero
Hình 7: Mức phát thải đỉnh CO2 vào năm 2050.

(Ghi chú: BSL=KB cơ sở. NZ=KB phát thải ròng bằng không. GT=KB Giao thông xanh. NZ+=KB phát thải ròng bằng không với tham vọng cao hơn. GG=KB Tăng trưởng xanh).

Nhận định và đánh giá về tổng quan:

1. Cần cung cấp đủ năng lượng đáp ứng nhu cầu năng lượng tăng nhanh để phát triển kinh tế, xã hội.

Với tăng trưởng kinh tế dự kiến khoảng 7%/năm, nhu cầu năng lượng/điện phục vụ phát triển kinh tế, xã hội sẽ vẫn duy trì ở mức cao. Nhu cầu điện dự báo vẫn tăng khoảng 8-9% trong thập kỷ tới, do đó, việc đảm bảo phát triển đầy đủ và kịp thời hạ tầng cơ sở hệ thống năng lượng là một thách thức hàng đầu. Tuy nhiên, trữ lượng và khả năng cung cấp năng lượng trong nước hạn chế (khí thiên nhiên và dầu không nhiều, trữ lượng than cũng đã khai thác tới hạn, thủy điện lớn cơ bản đã khai thác hết), chỉ còn có thể khai thác thêm thủy điện nhỏ, điện sinh khối đang được khai thác. Việc xây dựng các cảng mới để nhập khẩu than, LNG và việc tích hợp điện gió, mặt trời vào hệ thống điện nhằm phát huy hiệu quả cho mở rộng quy mô phát triển NLTT đều là những thách thức không hề nhỏ.

Ngoài ra, tỷ lệ tuân thủ quy định và áp dụng biện pháp sử dụng tiết kiệm năng lượng cho hiệu quả còn thấp. Chương trình VNEEP3 đề ra mục tiêu đạt mức tiết kiệm năng lượng 5-7% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ năm 2019-2025 và từ 8-10% trong giai đoạn từ 2019-2030. Việc thực hiện thành công các mục tiêu tiết kiệm năng lượng trong giai đoạn này còn nhiều thách thức và mức giá năng lượng/điện còn thấp khiến mối quan tâm đầu tư vào các công nghệ sử dụng năng lượng hiệu quả của các doanh nghiệp và người dân chưa được quan tâm đúng mức.

2. Nhu cầu vốn cho phát triển năng lượng, đặc biệt trong bối cảnh nợ công tăng cao và cần phân bổ vốn cho các ngành, lĩnh vực khác của nền kinh tế.

Để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng năng lượng trong bối cảnh giảm thiểu bảo lãnh của Chính phủ cho các dự án năng lượng, việc tự do hóa các khu vực dịch vụ cạnh tranh và đối xử công bằng đối với người tham gia thị trường mới cần được xem xét thấu đáo.

3. Hiện nay, thị trường năng lượng mới ở giai đoạn đầu. Để chuyển giao hiệu quả sang cơ chế thị trường, Việt Nam cần tiếp tục xem xét thực hiện:

(i) Xây dựng một kế hoạch cải tổ giá điện toàn diện và linh hoạt.

(ii) Xây dựng chiến lược truyền thông mạnh.

(iii) Điều chỉnh giá theo các giai đoạn một cách thích hợp.

(iv) Cải thiện hoạt động hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước.

(v) Khuyến khích hiệu quả năng lượng.

(vi) Giảm thiểu tác động của nhà nước lên định giá năng lượng.

4. Lĩnh vực năng lượng vẫn là nguồn phát thải KNK lớn nhất với 247 triệu tấn CO2 vào năm 2020 và 648,5 triệu tấn vào năm 2030.

5. Tại COP26, Việt Nam đã cam kết về việc đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, do vậy, cần tăng cường phát triển NLTT và đẩy mạnh sử dụng hiệu quả năng lượng. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều rào cản trong quá trình thực hiện, cần hoàn thiện và ổn định cơ chế. Mặt khác, cần có chính sách về khuyến khích đầu tư, hỗ trợ giá và nội địa hóa công nghệ.

6. Chi phí đầu tư cao, cùng với năng lực, trình độ công nghệ sản xuất trong nước còn hạn chế, chất lượng của sản phẩm và tuổi thọ thấp, chưa sản xuất được các thiết bị trung tâm của hệ thống… cũng là những thách thức lớn trên con đường đến phát thải ròng bằng không của Việt Nam vào năm 2050.

Đón đọc phần 2 - Phân tích, nhận định chuyên sâu về EOR24

TS. NGUYỄN HUY HOẠCH, TS. NGUYỄN ANH TUẤN - CHUYÊN GIA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo: Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo và Cục Năng lượng Đan Mạch: Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam - Đường đến phát thải ròng bằng không. Hà Nội, tháng 6 năm 2024

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động