RSS Feed for Nghị quyết 41: Động lực bứt phá cho ngành Dầu khí Quốc gia | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Chủ nhật 22/12/2024 12:06
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Nghị quyết 41: Động lực bứt phá cho ngành Dầu khí Quốc gia

 - Cuối năm 2015, khi thị trường dầu khí đang trong tình trạng khó khăn khi giá dầu thế giới suy giảm. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-QĐ/TW ngày 23-7-2015 về định hướng chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và đến nửa đầu năm 2035. Có thể kết luận rằng, Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị là động lực bứt phá cho sự tăng trưởng trong ngành Dầu khí Việt Nam.

Cần một chiến lược quản trị rủi ro hoàn chỉnh cho ngành Dầu khí Việt Nam
Cần sự đồng hành của Nhà nước trong tái cơ cấu PVN
Đông Nam Á đối phó giá dầu thấp và kiến nghị cho trường hợp Việt Nam

PGS, TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG - TỔNG THƯ KÝ HỘI ĐỒNG LÝ LUẬN TRUNG ƯƠNG

Sự ra đời của Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị

Trên cơ sở nhận định về triển vọng dầu khí ở miền Bắc Việt Nam và căn cứ Nghị định số 159-CP ngày 9/7/1961 của Hội đồng Chính phủ, để triển khai công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí, Tổng cục Địa chất ra Quyết định số 271-ĐC ngày 27/11/1961 thành lập Đoàn thăm dò Dầu lửa số 36 trực thuộc Tổng cục Địa chất. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép lấy ngày 27/11 hằng năm làm Ngày truyền thống ngành Dầu khí Việt Nam.

Ngay sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 9/8/1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 244-NQ/TW về việc triển khai thăm dò dầu khí trên cả nước. Ngày 20/8/1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phê chuẩn Quyết nghị số 33-QN/QH/K5 thành lập Tổng cục Dầu lửa và Khí đốt Việt Nam. Ngày 7/7/1988, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2000. Ngày 19/1/2006, Bộ Chính trị có Kết luận số 41-KL/TW và ngày 9/3/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 386/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025. Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được đổi tên Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam theo Quyết định số 199/2006/QĐ-TTg ngày 28-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong những năm qua, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, ngành Dầu khí Việt Nam đã không ngừng phát triển, trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ từ khâu tìm kiếm, thăm dò và khai thác đến vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. PVN là doanh nghiệp chủ lực đã có những bước phát triển vượt bậc, cùng với Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam và các doanh nghiệp khác trong ngành có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đi đầu trong mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia có hiệu quả bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông và giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.

Ngành Dầu khí Việt Nam đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ, viên chức và người lao động có trình độ chuyên môn vững vàng, được đào tạo cơ bản, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành Dầu khí Việt Nam còn một số hạn chế, yếu kém. Sự tham gia đầu tư, tìm kiếm thăm dò dầu khí ở những vùng nước sâu, xa bờ, nhạy cảm của các công ty lớn từ những nước có vị thế trên thế giới chưa đạt được như mong muốn; một số dự án đầu tư ra nước ngoài hiệu quả còn thấp, rủi ro cao; sự tham gia của các thành phần kinh tế khác ở trong nước còn hạn chế; quy mô, tiềm lực tài chính của PVN chưa đủ mạnh. Sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam còn chậm, chưa đồng bộ so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra; năng lực điều hành và khả năng kinh doanh còn hạn chế so với một số nước trong khu vực. Việc triển khai thực hiện cơ chế tài chính theo tinh thần Kết luận số 41-KL/TW của Bộ Chính trị còn chưa nhất quán, đồng bộ. Trong quá trình xây dựng PVN theo mô hình Tập đoàn kinh tế công nghiệp - thương mại tài chính những năm 2006 - 2008 đã để xảy ra tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải, hiệu quả thấp, thậm chí thua lỗ, lãng phí, thất thoát; nhiều vấn đề đến nay vẫn chưa được giải quyết.

Nhìn chung cuối năm 2015, khi thị trường dầu khí đang trong tình trạng khó khăn khi giá dầu thế giới suy giảm. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-QĐ/TW ngày 23-7-2015 về định hướng chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và đến nửa đầu năm 2035.

Quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết

Về quan điểm, Nghị quyết xác định:

1/ Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, Chiến lược biển đảo Việt Nam, bảo đảm an ninh năng lượng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

2/ Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam với hiệu quả kinh tế cao, bền vững, có trọng tâm, trọng điểm theo từng thời kỳ, nâng cao năng lực cạnh tranh; phát huy tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế; đẩy mạnh hợp tác quốc tế; mở rộng, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm tài nguyên, gắn liến với bảo vệ môi trường sinh thái.

3/ Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam theo nguyên tắc kinh tế thị trường; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường tính chủ động trong quản trị sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

4/ Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò dầu khi truyền thống đề bù đắp sự thiếu hụt khai thác dầu khí trong nước, tăng cường đầu tư ở khu vực nước sâu, xa bờ, gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, đồng thời tích cực đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc bảo đảm có hiệu quả kinh tế. Tăng cường nghiên cứu tìm kiếm, mở rộng thăm dò các nguồn năng lượng phi truyền thống; chú trọng phát triển hóa dầu, chế biến sâu các sản phẩm khí và dịch vụ dầu khí chất lượng cao.

5/ Phát triển PVN thành Tập đoàn nòng cốt, cùng với Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam. Tập trung vào phát triển các lĩnh vực chính là: tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí; công nghiệp khí; chế biến dầu khí; tồn trữ và phân phối các sản phẩm dầu khí; dịch vụ dầu khí, đặc biệt là dịch vụ kỹ thuật dầu khí chất lượng cao.

6/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị phát triển ngành Dầu khí. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, đồng thời cần huy động sự tham gia mạnh mẽ của các thành phần kinh tế khác và đẩy mạnh hợp tác quốc tế.

Mục tiêu tổng quát và cụ thể:

Về mục tiêu tổng quát: Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, then chốt, hoàn chỉnh, đồng bộ, bao gồm tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tồn trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu; góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Huy động mọi nguồn lực để đầu tư phát triển ngành Dầu khí Việt Nam; xây dựng PVN, Petrolimex và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành có tiềm lực mạnh về tài chính và khoa học - công nghệ, có sức cạnh tranh cao, chủ động tích cực hội nhập quốc tế.

Nghị quyết xác định về mục tiêu cụ thể trên các vấn đề: tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí; công nghiệp khí; chế biến dầu khí; tồn trữ, phân phối các sản phẩm dầu khí; dịch vụ dầu khí và công nghiệp điện.

Xác định rõ nhiệm vụ và giải pháp

Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế phát triển ngành dầu khí:

Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về dầu khí, trong đó quy định rõ về hoạt động dầu khí từ thượng nguồn, trung nguồn, hạ nguồn. Hoạch định các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp để thúc đẩy ngành Dầu khí Việt Nam phát triển. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về dầu khí. Tăng cường phân công, phân cấp quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm hiệu lực, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong lĩnh vực dầu khí. Xây dựng cơ chế, chính sách tăng cường thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế, các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để phát triển ngành Dầu khí.

Thứ hai: Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù riêng cho PVN:

Xây dựng hành lang pháp luật đặc thù nhằm tăng quyền chủ động cho PVN, nhất là về quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm đi đôi với kiểm tra, giám sát; về cơ chế đầu tư ra nước ngoài; về công tác tự tổ chức thực hiện các dịch vụ dầu khí đặc thù trong nội bộ PVN. Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại PVN, bảo đảm vận hành đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, phù hợp với xu hướng phát triển và hội nhập quốc tế; nghiên cứu phát triển các tổng công ty, công ty chuyên ngành trong lĩnh vực cốt lõi và các lĩnh vực chính đủ mạnh để có thể chủ động, tự thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Xây dựng chính sách giá khí hợp lý, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nhà nước và doanh nghiệp, người dân và giữa doanh nghiệp với nhau làm tiền đề để phát triển mạnh mẽ hơn nữa công nghiệp khí Việt Nam.

Thứ ba: Bảo đảm nguồn vốn cho PVN thực hiện các mục tiêu chiến lược:

Chính phủ quyết định tỷ lệ lãi dầu khí nước chủ nhà để lại cho PVN theo từng thời kỳ phù hợp với pháp luật về dầu khí và với tình hình thực tế của đất nước. PVN chủ động xây dựng, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển phù hợp với tỉ lệ để lại; có phương án tăng cường huy động nguồn vốn từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành xem xét, cân đối nguồn lực cho PVN từ các nguồn vốn hợp pháp khác… trong trường hợp cần thiết để bảo đảm yêu cầu đầu tư phát triển của Tập đoàn. Chính phủ xây dựng quy định cụ thể về việc sử dụng và cơ chế kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực tài chính của PVN đúng mục đích và có hiệu quả.

Thứ tư: Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên, môi trường:

Phát triển nguồn nhân lực dầu khi theo tiêu chuẩn quốc tế; ưu tiên đào tạo bổ sung cho những khâu còn thiếu, chuyên gia thuộc các lĩnh vực mũi nhọn. Xây dựng chế độ thù lao và các chế độ, chính sách đặc thù áp dụng cho các hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở trong nước và nước ngoài. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành, có trình độ cao. Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm an toàn và bảo vệ tài nguyên môi trường. Không ngừng cải thiện điều kiện lao động, môi trường lao động và bảo đảm sức khỏe cho người lao động.

Thứ năm: Phát triển ngành Dầu khí Việt Nam gắn liền với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh - đối ngoại:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về công tác quốc phòng - an ninh - đối ngoại gắn với hoạt động dầu khí. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa ngành Dầu khí với các bộ, ngành, địa phương liên quan. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy chế phối hợp và các thỏa thuận hợp tác giữa ngành Dầu khí và Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao để chủ động chuẩn bị và thực hiện tốt nhiệm vụ khảo sát, điều tra cơ bản, tìm kiếm, thăm dò dầu khí, bảo vệ vùng biển và chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh cho việc triển khai tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trên biển. Củng cố, xây dựng nền "ngoại giao dầu khí", tranh thủ các mối quan hệ tốt của Việt Nam với các nước để thu hút mạnh mẽ đầu tư của nước ngoài vào ngành Dầu khí và đầu tư ra nước ngoài.

Thể chế hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị

Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 41 của Bộ Chính trị, ngày 16/10/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 95/2015/NĐ-CP, quy định chi tiết một số điều của Luật Dầu khí (ban hành ngày 6-7-1993); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí (9-6-2000) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí (3-6-2008). Theo đó, ngành Dầu khí Việt Nam thực hiện hoạt động liên quan điều tra cơ bản; đấu thầu dự án tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí; tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ, khai thác dầu khí (kể cả xử lý, thu gom, tàng trữ, vận chuyển dầu khí trong khu vực khai thác cho tới điểm giao nhận và các hoạt động dịch vụ dầu khí). Mặt khác là thực hiện việc thu dọn các công trình cố định, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động dầu khí trong phạm vi lãnh thổ đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà Việt Nam là thành viên và phù hợp Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (1982).

Với 8 chương và 86 điều, Nghị định 95/2015/NĐ-CP đã tạo ra khung khổ pháp lý hoàn chỉnh, quy định đầy đủ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm các bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt là Bộ Công Thương và PVN trong các nội dung về đấu thầu dự án tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí; hợp đồng dầu khí; thực hiện hoạt động dầu khí; trữ lượng và phát triển mỏ; thu dọn công trình cố định, thiết bị và phương tiện phục vụ hoạt động dầu khí, cũng như các quy định quản lý nhà nước về hoạt động dầu khí.

Nghị định quy định, tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí trên cơ sở hợp đồng dầu khí, hoặc thỏa thuận khác được ký kết với PVN, hoặc với Chính phủ Việt Nam theo quy định của Luật Dầu khí. Nghị định 95/2015/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ 1-12-2015.

Có thể kết luận rằng, Nghị quyết 41 của Bộ Chính trị là động lực bứt phá cho sự tăng trưởng trong ngành Dầu khí Việt Nam.

TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động