RSS Feed for Giải pháp vận hành thủy điện ở Việt Nam - Nhìn từ bão Yagi (9/2024) đến Kajiki (8/2025) | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ tư 03/09/2025 14:04
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Giải pháp vận hành thủy điện ở Việt Nam - Nhìn từ bão Yagi (9/2024) đến Kajiki (8/2025)

 - Biến đổi khí hậu toàn cầu đang khiến thiên tai tại Việt Nam trở nên cực đoan hơn, với mưa lớn bất thường, lũ quét, lở đất và bão mạnh liên tiếp xảy ra. Trong bối cảnh đó, các công trình thủy điện không chỉ giữ vai trò phát điện, cung cấp năng lượng sạch, mà còn là “lá chắn” điều tiết lũ, bảo đảm an toàn cho hạ du công trình. Vấn đề đặt ra là: Vận hành thủy điện thế nào để vừa đảm bảo an toàn công trình, vừa tối ưu khai thác điện năng, đồng thời phát huy vai trò phòng chống thiên tai?
Vì sao cần sửa đổi Nghị định 72 về cơ chế, thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân? Vì sao cần sửa đổi Nghị định 72 về cơ chế, thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân?

Như chúng ta đã biết, Bộ Công Thương đang lấy ý kiến để hoàn thiện Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2025/NĐ-CP ngày 28/3/2025 của Chính phủ về cơ chế, thời gian điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân. Nghị định nhằm bổ sung các chi phí hợp lý, hợp lệ chưa được tính toán trước đây, tháo gỡ khó khăn cho EVN và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia... Trước dư luận đa chiều về nội dung này, Tạp chí Năng lượng Việt Nam có bài viết dưới đây để chia sẻ với bạn đọc.

Thực trạng vận hành thủy điện qua các đợt bão lũ gần đây:

Siêu bão Yagi (7/9/2024) gây ra trận lũ muộn lịch sử ở Bắc bộ. Bão Yagi trở thành siêu bão mạnh nhất trong hơn 30 năm qua khi đi vào Biển Đông và thậm chí là mạnh nhất trong 70 năm qua khi vượt qua đảo Hải Nam để rồi ngày 7/9/2024 đổ bộ vào miền Bắc nước ta. Hoàn lưu sau bão Yagi kết hợp với dải hội tụ nhiệt đới có trục qua Bắc bộ gây mưa lớn, lũ nhiều sông vượt kỷ lục tồn tại hơn 50 năm. Các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông Đà, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm buộc phải vận hành xả lũ khẩn cấp để đảm bảo an toàn đập, nhưng không thể cắt, hoặc làm chậm lũ. Hạ lưu đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt khu vực Hà Nội chịu ngập nặng.

Siêu bão Wipha (22/7/2025) đổ bộ Hưng Yên - Thanh Hóa với sức gió cấp 8-9, gây mưa lớn cho hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Tại Nghệ An, mực nước trạm Mường Xén lên 145,8 m lúc 1h ngày 23/7, trên lũ lịch sử 0,4 m, trên báo động ba 3,89 m. Tại trạm Thạch Giám lũ đạt đỉnh 76,13 m lúc 8h ngày 23/7, vượt lũ lịch sử 4,31, trên báo động ba 7,13 m và xuất hiện đỉnh lũ vượt tần suất kiểm tra (p=0,02%) tại vùng hồ công trình Thủy điện Bản Vẽ (Nghệ An). Đây là cơn bão sớm đối với vùng Bắc Trung bộ, gây ra lũ lịch sử hiếm gặp. Nhờ vận hành hợp lý, Công ty Thủy điện Bản Vẽ đã thành công trong việc cắt đỉnh lũ lịch sử, làm chậm và giảm lũ đáng kể cho vùng hạ du nhà máy thủy điện.

Bão Comay (25/7/2025), bão Kajiki (25/8/2025) và bão Nongfa (30/8/2025) liên tiếp gây mưa rất lớn cho khu vực Bắc Trung bộ trong vòng hơn một tháng qua, khiến nhiều hồ thủy điện phải liên tục vận hành điều tiết, duy trì an toàn đập trong khi giảm thiểu thiệt hại cho vùng hạ du. Những diễn biến trên cho thấy vai trò sống còn của thủy điện trong phòng chống thiên tai, đồng thời cũng đặt ra thách thức to lớn về công tác vận hành trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH).

Những cơn bão cho thấy tần suất và cường độ thiên tai đang vượt xa các tính toán thiết kế truyền thống, đặt các hồ chứa thủy điện vào tình trạng căng thẳng trong vận hành. Các đợt thiên tai này đã để lại hậu quả nghiêm trọng: Ngập nhà cửa, thiệt hại hoa màu, hư hỏng hạ tầng, sạt lở núi. Đồng thời, chúng cũng cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của thủy điện trong ứng phó thiên tai. Tổng hợp các cơn bão và vai trò vận hành thủy điện ứng phó với bão lũ trong thời gian vừa qua nêu ở bảng 1.

Bảng 1. Tổng hợp các cơn bão và vai trò vận hành thủy điện ứng phó với bão lũ:

Thời gian

Cơn bão

Khu vực ảnh hưởng

Vai trò vận hành thủy điện

9/2024

Yagi

Bắc bộ

Xả lũ đảm bảo an toàn công trình, không thể cắt/giảm lũ, hạ du bị ngập.

7/2025

Wipha

Bắc Trung bộ

Vận hành thành công cắt, làm chậm đỉnh lũ lịch sử tại Bản Vẽ, giảm ngập hạ du.

7/2025

Comay

Bắc Trung bộ

Mưa lớn, lũ quét, sạt lở; thủy điện hỗ trợ điều tiết giảm áp lực.

8/2025

Kajiki

Bắc Trung bộ

Mưa lớn, vận hành hồ nhằm hạ thấp đỉnh lũ.

8/2025

Nongfa

Bắc Trung bộ

Mưa lớn, tiếp tục yêu cầu phối hợp vận hành liên hồ chứa.

Hệ thống bậc thang thủy điện và vai trò điều tiết lũ:

Tiềm năng thủy điện nước ta đã được khai thác gần như triệt để. Các bậc thang thủy điện trên nhiều lưu vực sông đã được xây dựng và đưa vào vận hành không chỉ cung cấp điện, mà còn tham gia quan trọng vào cắt, giảm và làm chậm lũ cho vùng hạ lưu công trình (nêu tại bảng 2).

Bảng 2. Hệ thống bậc thang thủy điện trên các lưu vực sông và vai trò trong vận hành chống lũ:

Lưu vực sông

Các công trình thủy điện chính (tiêu biểu)

Vai trò trong vận hành và phòng chống lũ

Sông Đà

Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Huội Quảng, Bản Chát

Hệ thống hồ chứa lớn nhất miền Bắc; điều tiết lũ cho đồng bằng Bắc Bộ và Hà Nội

Sông Gâm

Tuyên Quang, Na Hang

Cắt lũ, bổ sung nguồn cho trung du - đồng bằng Bắc Bộ

Sông Chảy

Thác Bà, Bắc Hà, Cốc Ly (v.v...)

Hỗ trợ điều tiết khu vực miền núi phía Bắc

Sông Mã

Trung Sơn, Hồi Xuân

Giảm lũ cho Thanh Hóa; phát điện Bắc Trung Bộ

Sông Cả (Lam)

Bản Vẽ, Khe Bố

Cắt/giảm lũ, điều tiết cho Nghệ An - Hà Tĩnh

Sông Rào Quán

Rào Quán

Giảm lũ hạ du Quảng Trị; phát điện

Sông Hương

Bình Điền, Hương Điền, A Lưới, Tả Trạch

Điều tiết lũ, cấp nước; giảm ngập đô thị Huế

Vu Gia – Thu Bồn

A Vương, Sông Bung 2 và 4, Đăk Mi 4, Sông Tranh 2

Then chốt chống lũ Đà Nẵng; điều tiết liên hồ phức tạp

Sông Ba

An Khê - Ka Nak, Ayun Hạ, Krông H’Năng, Sông Hinh

Nguồn điện lớn Tây Nguyên; điều tiết lũ về hạ lưu Đắc Lawk (Phú Yên cũ)

Sông Sê San

Ialy, Pleikrông, Sê San 3, Sê San 3A, Sê San 4, Thượng Kon Tum

Phát điện chủ lực Tây Nguyên; giảm lũ cục bộ và điều phối dòng chảy xuyên biên giới về Campuchia

Sông Srepok

Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Srêpốk 3, 4

Điều tiết dòng chảy Tây Nguyên; hỗ trợ hạ lưu Campuchia

Sông Đồng Nai

Đồng Nai 3, 4, 5, Trị An, Thác Mơ, Hàm Thuận - Đa Mi

Nguồn điện lớn nhất miền Nam; giảm lũ và cấp nước cho hệ Đồng Nai - Sài Gòn/TP.HCM

Theo dự báo của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia: Từ nay đến cuối năm, Biển Đông có thể xuất hiện 8-11 cơn bão, trong đó khoảng 3-5 cơn bão sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền Việt Nam. Điều đó cho thấy BĐKH đã làm thay đổi quy luật của thời tiết đã hình thành từ nghìn năm, bão lụt có thể xảy ra bất cứ thời điểm nào trong năm. Do đó, việc vận hành an toàn các công trình thủy điện càng yêu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết nhằm ứng phó thiên tai bất định.

Thách thức trong vận hành thủy điện:

1. BĐKH làm gia tăng cực đoan khí tượng thủy văn, nhiều trận lũ vượt tần suất thiết kế.

2. Dung tích phòng lũ tại nhiều hồ thủy điện hạn chế, đặc biệt ở miền Trung - nơi lưu vực nhỏ, độ dốc lớn và mưa tập trung nhanh.

3. Mâu thuẫn mục tiêu giữa phát điện và phòng lũ: Vận hành để đạt tối đa sản lượng điện đôi khi mâu thuẫn với yêu cầu xả, đón lũ sớm.

4. Nguy cơ mất an toàn công trình và hạ du, nhất là khi thông tin dự báo khí tượng chưa chính xác hoặc chưa kịp thời.

Giải pháp vận hành thủy điện an toàn và hiệu quả:

Giải pháp chung:

1. Nâng cao chất lượng dự báo khí tượng - thủy văn, tăng độ chính xác về lượng mưa, lưu lượng lũ, thời gian đỉnh lũ.

2. Xây dựng, cập nhật và diễn tập quy trình vận hành liên hồ chứa, đảm bảo phối hợp tối ưu giữa các công trình trên cùng lưu vực.

3. Tăng cường dung tích phòng lũ cho các hồ chứa lớn, hoặc xem xét cải tạo, nâng cấp một số hồ để đáp ứng điều kiện khí hậu cực đoan.

4. Ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong theo dõi, giám sát và hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ.

5. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư vùng hạ du, đảm bảo thông tin xả lũ được truyền tải nhanh chóng, kịp thời nhằm giảm thiểu thiệt hại.

6. Đầu tư nâng cấp công trình: Thường xuyên kiểm tra, giám sát các công trình đập dâng, đập tràn, tuyến năng lượng và nhà máy thủy điện. Trong trường hợp cần thiết phải gia cố đập, nâng cao năng lực tràn xả lũ, hiện đại hóa hệ thống điều khiển để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình.

Giải pháp theo từng miền:

1. Đối với miền Bắc: Các hồ thủy điện trên bậc thang lưu vực sông Đà (Lai Châu - Sơn La - Hòa Bình) cần phối hợp vận hành liên hồ chặt chẽ, nhằm giảm áp lực lũ cho đồng bằng Bắc bộ. Bài học từ lũ lịch sử 2024 cho thấy cần có cơ chế “xả đón lũ sớm”, thay vì dồn lũ vào cuối kỳ.

2. Đối với miền Trung: Đây là khu vực chịu bão nhiều nhất, hồ chứa nhỏ và vừa lại chiếm tỷ trọng lớn, dễ quá tải. Cần nâng cấp hệ thống dự báo mưa bão, quy trình vận hành liên hồ (như Vu Gia - Thu Bồn, sông Cả), đồng thời tăng dung tích phòng lũ bằng giải pháp công trình và phi công trình.

3. Đối với Tây Nguyên: Lũ thường gắn với mưa lớn đầu nguồn sông Sê San, Srepok. Do vậy, phải vận hành hài hòa giữa phát điện và giữ dung tích phòng lũ. Đặc biệt, cần chú ý đến rủi ro lũ quét, sạt lở đất ở khu vực dân cư gần hồ chứa, phối hợp chia sẻ thông tin dòng chảy với Campuchia để giảm thiệt hại hạ du.

4. Đối với miền Nam: Các hồ Trị An, Đồng Nai 3-5, Hàm Thuận - Đa Mi có vai trò then chốt trong giảm lũ cho TP.HCM. Giải pháp ưu tiên là nâng cao dung tích phòng lũ ở Trị An, phối hợp với quy hoạch chống ngập đô thị, đồng thời tăng cường giám sát vận hành bậc thang thủy điện.

Kết luận:

BĐKH đã và đang khiến hoạt động vận hành thủy điện trở nên khó lường hơn bao giờ hết. Những cơn bão liên tiếp từ Yagi, Wipha đến Comay, Kajiki và Nongfa là lời cảnh báo rõ ràng rằng thiên tai tại Việt Nam sẽ ngày càng khốc liệt, bất thường. Trong bối cảnh BĐKH ngày càng khó lường, vai trò của hệ thống thủy điện không chỉ dừng lại ở phát điện, mà còn mở rộng sang nhiệm vụ điều tiết nguồn nước, cắt và giảm lũ, góp phần bảo vệ an toàn cho hàng triệu người dân vùng hạ du công trình.

Thực tiễn từ các đợt bão lũ năm 2024-2025 cho thấy: Một số công trình thủy điện như Bản Vẽ đã phát huy hiệu quả rõ rệt trong việc cắt giảm đỉnh lũ, trong khi nhiều hồ chứa khác vẫn bộc lộ hạn chế về dung tích phòng lũ và khả năng điều tiết muộn.

Do đó, để thủy điện tiếp tục là “lá chắn nước” trong bối cảnh BĐKH, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác dự báo - quy trình vận hành liên hồ - hiện đại hóa công trình - và đồng thuận xã hội. Đây chính là chìa khóa để vừa khai thác tối đa lợi ích kinh tế - năng lượng, vừa bảo đảm an toàn cho cộng đồng trước thiên tai ngày càng khắc nghiệt./.

TS. NGUYỄN HUY HOẠCH - HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động