RSS Feed for Các dự báo đáng chú ý về ngành điện Hoa Kỳ vào năm 2026 | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ sáu 12/12/2025 15:48
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Các dự báo đáng chú ý về ngành điện Hoa Kỳ vào năm 2026

 - Tập đoàn Deloitte của Anh đã bình chọn, công bố các dự báo liên quan đến năng lượng. Dưới đây là 5 dự báo đáng chú ý cho ngành điện Hoa Kỳ vào năm 2026.
Báo cáo nhận diện rủi ro, thách thức và gợi ý chính sách phát triển các phân ngành điện Việt Nam Báo cáo nhận diện rủi ro, thách thức và gợi ý chính sách phát triển các phân ngành điện Việt Nam

Để giúp các đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khóa XV cập nhật một số thông tin tham khảo trong quá trình thảo luận, góp ý xây dựng dự án Luật, Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến lĩnh vực điện lực, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam vừa hoàn thiện Báo cáo về “Nhận diện rủi ro, thách thức và gợi ý giải pháp chính sách phát triển ngành điện của Việt Nam” - tháng 10/2025. Dưới đây là nội dung chính của Báo cáo.

1. Tăng trưởng đáng tin cậy - Đảm bảo công suất ổn định cho nhu cầu tăng cao:

Năm 2025, dự báo phụ tải tăng và biên độ công suất giảm đã thúc đẩy các công ty điện lực và cơ quan quản lý chú trọng đến độ tin cậy ngắn hạn bên cạnh kế hoạch dài hạn. Tại Hoa Kỳ, Bộ Năng lượng (DoE) dự kiến ​​khoảng 104 GW công suất điện than và khí đốt tự nhiên sẽ ngừng hoạt động vào năm 2030, được thay thế bằng 209 GW công suất mới. Tuy nhiên, chỉ 10% trong số các nguồn điện bổ sung này có thể cấp điện cơ bản ổn định, làm gia tăng khoảng cách về độ tin cậy. Các công ty điện lực đang theo đuổi chiến lược với ba tầm nhìn, tập trung vào công suất đóng góp phủ đỉnh, thay vì chỉ số megawatt cố định.

Trong tương lai gần, các công ty đang thu hẹp khoảng cách về độ tin cậy thông qua việc tăng cường sản xuất điện ổn định và tính linh hoạt trong vận hành. Khí đốt tự nhiên vẫn là xương sống cho cấp điện ổn định, với gần 19 GW công suất điện khí mới được lên kế hoạch đến năm 2028. Các công ty điện đang kéo dài tuổi thọ của các nhà máy điện than, vận hành các “tổ máy linh hoạt” chạy bằng khí đốt tự nhiên nhiều giờ hơn trong thời gian nhu cầu cao và tăng công suất của các nhà máy điện hạt nhân hiện có.

Trọng tâm sau đó sẽ chuyển sang thời gian lưu trữ và tính đa dạng, với việc lưu trữ năng lượng dài hạn (LDES), chuyển từ giai đoạn thí điểm sang thương mại hóa. Ít nhất hai tiểu bang hiện có yêu cầu về LDES với tổng công suất hơn 2,75 GW. Các công ty tiện ích được gọi chung là Utilities Sector (ngành tiện ích), cung cấp dịch vụ thiết yếu như điện, nước, khí gas, hay các giải pháp tiết kiệm, quản lý năng lượng hiệu quả cho khách hàng cũng đang đầu tư giải pháp lưu trữ từ 8 đến 10 giờ để giải quyết các khoảng trống về độ tin cậy trong các mùa nhu cầu cao và giảm sản lượng điện tái tạo bị cắt bỏ. Mặc dù điều này có thể giảm bớt áp lực đỉnh, nhưng nó không phải là giải pháp thay thế hoàn toàn cho sản lượng ổn định như khí đốt, hoặc hạt nhân. Các công ty điện lực cũng đang mở rộng phản ứng nhu cầu và phụ tải linh hoạt, biến chúng từ các công cụ khẩn cấp thành công suất đáng tin cậy trong thời gian cao điểm.

Hạt nhân đang lấy lại sức hút như một mỏ neo dài hạn cho công suất sạch và ổn định. Đạo luật ‘Một Dự luật Lớn và Đẹp’ (One Big Beautiful Bill - OBBBA) của Hoa Kỳ duy trì tín dụng theo Điều khoản 45U cho các nhà máy hiện có và duy trì điều kiện đủ cho các nhà máy điện hạt nhân tiên tiến theo Điều khoản 45Y và 48E (nếu chúng đáp ứng các yêu cầu về “nội địa hóa” và “khởi công xây dựng”). Điều này củng cố tính kinh tế cho các nhà máy hiện có, cũng như tạo động lực cho việc mở rộng và xây mới nhà máy. Các cột mốc gần đây, bao gồm khoản tài trợ liên bang 900 triệu USD cho các lò phản ứng tiên tiến đang được cung cấp, phê duyệt thiết kế mới và đơn xin cấp phép xây dựng lò phản ứng mô-đun nhỏ đầu tiên của Hoa Kỳ.

Mục tiêu của DoE là tăng gấp 4 lần công suất hạt nhân của Hoa Kỳ lên 400 GW vào năm 2050, bao gồm cả kế hoạch bố trí tại các cơ sở quân sự và trung tâm dữ liệu AI.

Vào năm 2026, các công ty điện lực sẽ tiếp tục chuyển từ lập kế hoạch sang thực hiện. Họ sẽ phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng để đảm bảo các dự án công suất cố định đúng tiến độ, giảm thiểu việc cắt giảm công suất và giảm chi phí.

Giả thích: Tín dụng 45U (Khoản 45U) trong đạo luật OBBBA là một khoản tín dụng thuế hai tầng, theo lạm phát, dành cho sản xuất điện hạt nhân không phát thải; thưởng cho mỗi kWh điện hạt nhân sạch được sản xuất và bán sau năm 2023, với mức cơ bản (khoảng $0,003/kWh) và mức cao hơn (nếu tuân thủ lương và học việc), nhưng có thêm các hạn chế về nguồn gốc nhiên liệu hạt nhân từ các quốc gia và thực thể được chỉ định (FEOC) bắt đầu từ năm 2028.

Khoản tín dụng thuế 45Y là Khoản tín dụng thuế sản xuất (PTC) mới của OBBBA dành cho sản xuất điện không phát thải, thay thế các khoản tín dụng cũ như 45J, cung cấp mức cơ sở là 0,003 USD cho mỗi kWh (tăng lên 1,5 USD cent theo quy định hiện hành về tiền lương/học nghề) trong 10 năm, chủ yếu dành cho các cơ sở bắt đầu xây dựng sau năm 2024, với thời hạn đưa các dự án vào sử dụng là năm 2027 đối với năng lượng gió/mặt trời, trong khi các công nghệ khác như hạt nhân và hydro có thời hạn dài hơn, tất cả đều phải tuân theo các hạn chế của Thực thể nước ngoài đáng quan tâm (FEOC).

Khoản tín dụng 48E, hay Khoản tín dụng Thuế đầu tư điện sạch (ITC) dành cho các công nghệ mới, là khoản tín dụng thuế năng lượng tái tạo quan trọng theo Đạo luật giảm lạm phát (IRA) mà đạo luật OBBA hướng tới bãi bỏ đối với các dự án mới; đồng thời duy trì khoản tín dụng 45U hiện có dành cho điện hạt nhân và mở rộng khả năng chuyển nhượng cho các khoản tín dụng năng lượng sạch. Đạo luật OBBA, sau khi được thông qua sẽ tìm cách loại bỏ khoản tín dụng 48E trung lập về công nghệ đối với các dự án bắt đầu xây dựng sau 60 ngày kể từ ngày ban hành dự luật, nhưng khôi phục khả năng chuyển nhượng đối với các khoản tín dụng như 45U và các ưu đãi năng lượng sạch khác, giúp chúng dễ bán hơn.

2. Tích hợp nhu cầu - Tận dụng các trung tâm dữ liệu siêu quy mô làm đối tác lưới điện:

Năm 2025, các trung tâm dữ liệu của Hoa Kỳ nổi lên như một trong những nguồn nhu cầu điện tăng trưởng nhanh nhất. Từng bị coi là những siêu tải không linh hoạt, các công ty siêu quy mô giờ đây là những đối tác vận hành tiềm năng.

Các trung tâm dữ liệu có thể hỗ trợ độ tin cậy theo ba cách:

(1) Các nền tảng điều phối có AI hỗ trợ có thể chuyển đổi khối lượng công việc giữa các khu vực theo thời gian thực, điều chỉnh nhu cầu phù hợp với nguồn cung dư thừa từ năng lượng tái tạo.

(2) Điều khiển điện tử công suất tiên tiến cho phép các trung tâm dữ liệu phản ứng tức thời với các biến động của lưới điện, hoạt động như pin lưu trữ. Hiện tại, chưa đến 5% cơ sở tham gia các chương trình phản ứng nhu cầu, nhưng các thử nghiệm cho thấy có thể điều chỉnh từ 10% đến 30% tải trong các sự kiện cao điểm mà không bị gián đoạn.

(3) Những tiến bộ trong kiểm soát khối lượng công việc và đo từ xa theo thời gian thực cho phép phản hồi ở mức mili giây, cho phép các trung tâm dữ liệu hỗ trợ các thị trường dự trữ nhanh bằng cách điều chỉnh tải khi lưới điện bị hạn chế. Kết hợp lại, các trung tâm siêu quy mô có thể hoạt động như các tài sản kép - vừa tiêu thụ điện năng, vừa cung cấp các dịch vụ nâng cao độ tin cậy cho lưới.

Sang năm 2026, kết nối dựa trên công suất có thể ngày càng gắn kết ưu tiên các trung tâm với dữ liệu đo từ xa và tính linh hoạt. Các quy tắc về mức độ đủ tài nguyên dự kiến ​​sẽ bắt đầu công nhận tải linh hoạt kết hợp với pin 4 giờ là một nguồn năng lượng đáng tin cậy. Biểu giá điện động có khả năng sẽ lan rộng, khiến các công ty điện lực quy mô lớn phải điều chỉnh theo các tín hiệu thời gian thực.

3. Hệ thống thông minh hơn - Tích hợp phân tích và AI để tối ưu hóa hiệu quả:

Các công ty điện lực đang chịu áp lực phải cung cấp độ tin cậy cao hơn với cùng một nguồn lực. Điều này đòi hỏi phân tích và tự động hóa để thúc đẩy phương thức sử dụng vốn, hiệu quả vận hành - tạo nền tảng để mở rộng quy mô triển khai AI của công ty. Việc áp dụng ở quy mô doanh nghiệp đang được thúc đẩy bởi hai động lực hội tụ:

- Năng lượng cho AI khi các nhà máy điện lên kế hoạch ứng phó với phụ tải trung tâm dữ liệu ngày càng tăng.

- AI cho năng lượng khi trí tuệ nhân tạo được tích hợp để tối ưu hóa lưới điện.

Các công ty điện lực đang xây dựng cơ sở hạ tầng điện toán kết hợp các khả năng biên, đám mây và tại chỗ, AI biên - từ máy bay không người lái đến cảm biến trạm biến áp - cho phép đưa ra quyết định ở cấp độ mili giây. Một số mô hình AI được triển khai tại chỗ để xử lý các chức năng quan trọng không thể di chuyển ra ngoài môi trường an toàn.

Ngoài ra, các nhà máy điện đang xem xét các kỹ thuật học liên kết để cải thiện mô hình trên nhiều địa điểm trong khi vẫn giữ dữ liệu cục bộ, cung cấp một lộ trình an toàn để mở rộng trí tuệ hệ thống. Cùng nhau, cơ sở hạ tầng này có thể giúp cân bằng khả năng phục hồi, tuân thủ và khả năng mở rộng để doanh nghiệp áp dụng.

Trong vận hành lưới điện, AI có thể bổ sung cho bảo trì dự đoán truyền thống để giúp các công ty điện lực ưu tiên công việc, giảm thiểu sự cố, cải thiện năng suất của đội ngũ, cho phép chủ động phát hiện cháy rừng và đảm bảo khôi phục sự cố nhanh hơn. Đến năm 2027, dự kiến ​​gần 40% phòng điều khiển của các công ty điện lực sẽ sử dụng AI.

Đối với lực lượng lao động, các công cụ phụ trợ AI (copilot) thế hệ mới được đào tạo về sổ tay hướng dẫn và nhật ký sự cố có thể hướng dẫn kỹ thuật viên theo thời gian thực, tăng tỷ lệ khắc phục sự cố ngay lần đầu, trong khi AI và cảm biến hiện trường hỗ trợ biên lưới điện rút ngắn chu kỳ kiểm tra.

Về lưới điện, trí tuệ nhân tạo nhúng có thể cho phép kiểm soát sự kiện, điện áp và các nguồn năng lượng phân tán ở mức mili giây, cho phép các đường dây và lưới điện siêu nhỏ tự điều chỉnh theo thời gian thực dưới sự giám sát của người vận hành.

Trong doanh nghiệp, AI có thể hỗ trợ hợp lý hóa việc tuân thủ, tài chính và dịch vụ khách hàng bằng cách tự động hóa các tác vụ lặp đi lặp lại và tăng cường tính minh bạch.

Vào năm 2026, các công ty điện sẽ mở rộng phân tích có AI hỗ trợ trong phòng điều khiển, mở rộng việc áp dụng các trợ lý AI thế hệ mới trên toàn bộ hoạt động và chính thức hóa các khuôn khổ giám sát - với sự giám sát của con người vẫn giữ vai trò trung tâm.

4. Khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng - Đảm bảo khả năng phục hồi thông qua việc khôi phục sản xuất và đa dạng hóa:

Trong vài năm trở lại đây, thời gian giao hàng cho các thiết bị lưới điện quan trọng như máy biến áp và thiết bị đóng cắt đã kéo dài đến nhiều năm, trong khi chi phí thiết bị và dự án tiếp tục tăng. Chi phí của một nhà máy điện chạy bằng khí đốt mới đã tăng vọt lên hơn 20% so với các dự án được xây dựng chỉ vài năm trước.

Các mức thuế mới cũng có thể ảnh hưởng đến thời gian giao hàng và chi phí. Những mức thuế này bao gồm thuế đối với thép (bao gồm cả thép điện định hướng hạt), nhôm và một số sản phẩm đồng, bên cạnh việc mở rộng điều tra chuỗi cung ứng năng lượng mặt trời, gió và pin. Việc thắt chặt các yêu cầu về hàm lượng nội địa và nguồn cung ứng càng làm tăng thêm sự phức tạp.

Để ứng phó với những thách thức này, ngành điện Hoa Kỳ đang theo đuổi ba chiến lược chính:

Thứ nhất: Đưa sản xuất trở lại, đa dạng hóa và đặt chỗ trước. Tại Hoa Kỳ, các nhà cung cấp đang mở rộng năng lực sản xuất để rút ngắn thời gian giao hàng và nội địa hóa nguồn cung cấp thiết bị quan trọng. Để giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp duy nhất, các công ty điện lực đang thúc đẩy việc đa dạng hóa nhà cung cấp thông qua chiến lược cung ứng kép và hợp đồng nhiều gói thầu.

Thứ hai: Triển khai các công nghệ nâng cao lưới điện (GET). Bên cạnh việc tái cấu trúc nguồn cung, các công ty điện lực đang xem xét các công nghệ GET và phụ tải linh hoạt để giải phóng công suất ngắn hạn và trì hoãn việc xây dựng tài sản mới. Mặc dù GET mang theo những rủi ro riêng về nguồn cung, nhưng chúng có thể được triển khai nhanh hơn so với các dự án 500 kV kéo dài hàng thập kỷ. Tại Hoa Kỳ, các công ty điện đang tích hợp GET vào các kế hoạch tài nguyên tích hợp, được hỗ trợ bởi Lệnh FERC số 1920. Đến giữa năm 2025, ít nhất 14 tiểu bang đã ban hành luật và 9 tiểu bang khác đang xem xét các biện pháp yêu cầu các công ty điện lực đánh giá GET, hoặc truyền tải tiên tiến trong hồ sơ lập kế hoạch, hoặc đầu tư.

Thứ ba: Tận dụng các sandbox để đẩy nhanh đổi mới mô-đun. Các chương trình sandbox quản lý đang giúp triển khai các trạm biến áp mô-đun, máy biến áp di động và phụ tùng thay thế dưới sự giám sát chặt chẽ. (Chương trình hộp cát ‘sandbox program’ là môi trường ảo hóa, cô lập để chạy thử nghiệm ứng dụng, phần mềm độc hại, hoặc các tính năng mới một cách an toàn, không ảnh hưởng đến hệ thống chính). Khoảng 10 tiểu bang đang phép các công ty điện lực thử nghiệm các công nghệ mới, rút ​​ngắn thời gian xem xét từ nhiều năm xuống còn vài tháng. (Ví dụ, Connecticut xem xét các đề xuất chuyển đổi lưới điện trong vòng 18 tháng).

Vào năm 2026, khả năng phục hồi nguồn cung đang trở thành một phần của kế hoạch độ tin cậy cốt lõi. Các công ty điện dự kiến ​​sẽ tích hợp các thỏa thuận cung cấp nhiều năm, nhiều nhà cung cấp, tích hợp các công nghệ nâng cao lưới điện và sử dụng các công cụ kỹ thuật số để theo dõi rủi ro về nhà cung cấp và hàng tồn kho theo thời gian thực.

5. Đổi mới vốn - Mở khóa nguồn tài chính linh hoạt để mở rộng quy mô một cách hợp lý:

Tại Hoa Kỳ, ngành điện lực đang phải đối mặt với nhu cầu vốn kỷ lục - hơn 1,4 nghìn tỷ USD đến năm 2030 - ngay cả khi áp lực về khả năng chi trả ngày càng gia tăng. Để ứng phó với tình trạng này, các công ty điện lực đang định hình lại danh mục đầu tư và dòng vốn thông qua các thương vụ sáp nhập, mua lại và luân chuyển danh mục đầu tư.

Trong chín tháng đầu năm 2025, hoạt động M&A trong ngành điện lực Hoa Kỳ đã vượt quá 109 tỷ USD, được thúc đẩy bởi việc tái định vị chiến lược. Một số công ty điện lực đang mua lại các tài sản có thể điều độ để đáp ứng nhu cầu phụ tải kỹ thuật số và công nghiệp, trong khi các công ty khác đang thoái vốn khỏi các tài sản tăng trưởng chậm hơn để tái đầu tư vào các mạng lưới được quản lý, nguồn điện ổn định và cơ sở hạ tầng sạch. Đồng thời, các nhà đầu tư đang tăng cường đầu tư vào các công ty điện lực được quản lý tốt và các nhà máy theo hợp đồng, được thu hút bởi lợi suất ổn định. Những động thái này đánh dấu sự nổi lên của các công ty điện lực như những trung tâm vốn.

Một loạt mô hình kinh doanh mới đang mang lại sự linh hoạt trong tài chính cho các công ty điện lực:

- Đồng đầu tư danh mục đầu tư: Liên doanh, quan hệ đối tác chiến lược và hợp đồng dịch vụ đang được sử dụng để phân tán rủi ro xây dựng và công nghệ; đồng thời đảm bảo năng lực của công ty được cung cấp thông qua các thỏa thuận dài hạn.

- Chứng khoán hóa, nợ có nhãn hiệu và phát hành cổ phiếu: Chứng khoán hóa ngày càng được sử dụng để phân tán các chi phí bất thường theo thời gian - chẳng hạn như phục hồi sau bão. Điều này có thể giúp khách hàng tiết kiệm tiền; đồng thời duy trì năng lực bảng cân đối kế toán. Phát hành cổ phiếu vẫn là một đòn bẩy quan trọng. Nhiều công ty điện lực đang khai thác thị trường thông qua các đợt chào bán công khai và kế hoạch tái đầu tư cổ tức để tài trợ cho các khoản chi tiêu vốn kỷ lục trong khi vẫn duy trì các chỉ số tín dụng.

- Hợp đồng năng lực dịch vụ: Để đạt được kết quả đồng thời chuyển các rủi ro vòng đời khỏi bảng cân đối kế toán, các công ty điện lực đang sử dụng các cơ chế như cơ cấu trả tiền theo công suất, hợp đồng đảm bảo đủ nguồn lực lưu trữ, thỏa thuận nhà máy điện ảo và lưới điện siêu nhỏ năng lượng dưới dạng dịch vụ.

- Tiền tệ hóa tín dụng thuế: Các điều khoản chuyển nhượng cho phép các nhà phát triển bán các khoản tín dụng thuế năng lượng sạch liên bang chưa sử dụng, từ đó giải phóng thanh khoản. Gần 30 tỷ USD tín dụng đã được giao dịch vào đầu năm 2025, với khối lượng dự kiến ​​đạt 50 tỷ USD vào cuối năm.

Để mở rộng quy mô các mô hình đổi mới này, các khuôn khổ pháp lý cần phải thay đổi. Đến giữa năm 2025, ít nhất 28 tiểu bang tại Hoa Kỳ xem xét các quy định dựa trên công suất, với 17 tiểu bang và Washington, D.C. đã ban hành luật cho phép. Sự thay đổi này sẽ ghi nhận các kết quả - công suất được cung cấp, độ tin cậy, khả năng chi trả - thay vì tổng vốn được triển khai và có thể tạo ra không gian cho việc đồng đầu tư, chứng khoán hóa, cũng như các hợp đồng dựa trên dịch vụ.

Vào năm 2026, chiến lược vốn có thể sẽ được đo lường ít hơn bằng tổng chi tiêu, nhiều hơn bằng công suất trên mỗi đô la và tác động hóa đơn trên mỗi megawatt gia tăng. Các công ty điện có thể kết hợp các dự án tự tài trợ với quan hệ đối tác. Tài trợ chứng khoán hóa và các mô hình dựa trên kết quả có thể sẽ cung cấp nhiều công suất hơn, nhanh hơn mà không gây quá tải cho khách hàng./.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Link tham khảo:

https://www.deloitte.com/us/en/insights/industry/energy-resources-industrials/us-energy-industry-trends.html

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động