RSS Feed for Kiến nghị  giảm hợp lý tỷ trọng nhiệt điện than trong QHĐ VII (điều chỉnh) | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ sáu 22/11/2024 16:21
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Kiến nghị giảm hợp lý tỷ trọng nhiệt điện than trong QHĐ VII (điều chỉnh)

 - Bài báo dưới đây của PGS, TS. Bùi Huy Phùng trình bày tiềm năng, khả năng khai thác các nguồn năng lượng Việt Nam, dự báo phát triển các nguồn điện đến 2030. Trong đó, tỷ trọng nhiệt điện than trên 50%, phát thải khí nhà kính trong năng lượng chiếm tới 85% phát thải quốc gia. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tác giả đề nghị "nghiên cứu giảm hợp lý tỷ trọng nhiệt điện than, thông qua xây dựng Quy hoạch năng lượng tổng thể Quốc gia".

Nhiệt điện than trong Đề án điều chỉnh QHĐ VII
Phát triển nhiệt điện than trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam

PGS, TS. BÙI HUY PHÙNG 

Bối cảnh biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhân loại. Cộng đồng quốc tế đã có nhiều hoạt động cổ vũ và yêu cầu các nước tìm cách giảm thiểu và thích ứng với BĐKH, với mục đích cao cả là bảo vệ hành tinh và nhân loại phát triển bền vững. Một yếu tố quan trọng gây nên hiện tượng nóng lên của trái đất, làm BĐKH là phát thải khí nhà kính (KNK) mà chủ yếu là CO2, từ hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người. Trong đó, phát thải CO2 chủ yếu phát sinh từ hoạt động đốt nhiên liệu, mà than chiếm tỷ trọng cao nhất.

Hiện nay, than tiêu thụ đang chiếm trên 30% tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp, sản xuất 39% sản lượng điện toàn cầu, phát thải KNK từ than chiếm tới gần 40% tổng phát thải toàn cầu.

Trong bối cảnh này, nhiều nước đã và đang tìm cách giảm tiêu thụ than, tìm các nguồn sạch hơn thay thế là rất cần thiết. Thiết nghĩ chúng ta nên tiến hành nghiên cứu nghiêm túc, đánh giá khách quan để tìm cách sử dụng hợp lý nguồn “vàng đen” quý giá này.

Để nhìn nhận vai trò của than, nhiệt điện than hiện nay và triển vọng những năm tới, chúng ta cần xem xét một cách toàn diện từ tiềm năng, trữ lượng nhiên liệu - năng lượng, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khả năng tài chính, công nghệ, môi trường của đất nước.

Các nguồn năng lượng

(1) Nguồn thủy điện

Tiềm năng kinh tế - kỹ thuật - môi trường về thuỷ điện được đánh giá khoảng 70-75 tỷ kWh, đến nay chúng ta đã khai thác trên 70% tiềm năng. Hiện tại, thủy điện đóng góp khoảng 42% lượng điện sản xuất, nhưng dự kiến đến 2020 khoảng 18% và 2030 còn khoảng 13%.

Thực tế thời gian qua chúng ta xây dựng thuỷ điện với quy hoạch chưa tốt, đặc biệt là thuỷ điện vừa và nhỏ, mới chú ý tới hiệu quả phát điện là chính, chưa quan tâm đầy đủ việc sử dụng tổng hợp nguồn nước, chưa chú ý đầy đủ phòng lũ hạ lưu, cũng như quy trình vận hành hệ thống công trình thuỷ điện bậc thang. Thậm chí một số công trình chưa kiểm định đã chạy, thiếu tuân thủ quy định bảo vệ môi trường, trồng rừng thay thế,... đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng: mất rừng, hạn hán, môi sinh thay đổi, ảnh hưởng tới chiến lược phát triển xanh.

Thuỷ điện là nguồn năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, ngày nay khai thác thuỷ điện phải thận trọng về môi trường, môi sinh và phát triển bền vững.

(2) Nguồn dầu - khí

Theo đánh giá của ngành Dầu khí Việt Nam, trữ lượng dầu - khí của chúng ta có thể thu hồi là 3,8-4,2 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng đã được xác minh khoảng 1,05-1,14 tỷ tấn, trong đó khí đốt chiếm trên 60%[4].

Dự báo khả năng khai thác dầu - khí giai đoạn tới 2030, kể cả đầu tư ra nước ngoài được trình bày trong bảng 1.

Bảng 1: Dự báo khả năng khai thác dầu - khí đến 2030

 

2010

2015

2020

2025

2030

Dầu thô PA cơ sở-tr.tấn    

19,86

20,0

20,7

21,7

22,0

Trong đó nội địa-tr.tấn       

19,16

17

16,3

16,2

16

Khí đốt-tỷ m3                    

8

11

17

17

17

 

Nguồn dầu - khí trong nước, với mức độ hiểu biết hiện nay, rõ ràng là rất hạn chế, không thể đảm bao cho nhu cầu.

Các nhà hoạch định chính sách cũng đã nhìn thấy bất cập này. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cũng đang nỗ lực tìm giải pháp khắc phục, trong đó kể cả đầu tư ra nước ngoài để bổ sung sản lượng dầu.

Tuy nhiên, việc đầu tư ra nước ngoài những năm qua cũng gặp nhiều khó khăn. Hai năm gần đây, thị trường dầu thế giới cung vượt cầu, giá dầu giảm tới 60% tính từ giữa năm 2014, hiện nay chỉ còn khoảng 40USD/thùng; gây bất ổn thị trường năng lượng nói chung, ảnh hưởng lớn tới cả kinh tế thế giới.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, giá dầu còn thay đổi khó lường, ảnh hưởng lớn tới nguồn năng lượng trong nước.

(3) Nguồn năng lượng tái tạo

Việt Nam được đánh giá có tiềm năng năng lượng tái tạo (NLTT) khá phong phú, tiềm năng gió được đánh giá khoảng 150.000 MW, bức xạ mặt trời trung bình đạt 3,5 kWh/m2/ngày ở phía Bắc; 4,5 kWh/m2/ngày ở phía Nam.

Tuy nhiên, đến nay, tài liệu, số liệu khảo sát, đo đạc còn thiếu và độ tin cậy thấp. Về thể chế đã có quan tâm, nhưng chưa đủ để khuyến khích đầu tư, phát triển sử dụng. Việc sử dụng năng lượng mặt trời để đun nước được đánh giá là bắt đầu có hiệu quả.

Đến 2015, tổng công suất điện tái tạo so với tiềm năng còn khá khiêm tốn, mới khoảng 2000 MW, chiếm 5% công suất và 3,9% tổng điện năng hệ thống. Một số dự án điện gió như ở Ninh Thuận, Bạc Liêu… tuy giá thành điện còn khá cao, nhưng đã bước đầu phát huy tác dụng.

(4) Nguồn than

Từ tài liệu Quy hoạch ngành Than điều chỉnh 2015 [3] cho thấy, tổng tài nguyên - trữ lượng than của nước ta, tính đến 31-12-2015 là 48,8 tỷ tấn, trong đó than đá 48,4 tỷ, than bùn 0,34 tỷ tấn. Tài nguyên và trữ lượng huy động vào quy hoạch là 3,05 tỷ tấn, trong đó than bùn 0,06 tỷ tấn. Nguồn than Đồng bằng Sông Hồng, tuy được đánh giá có tiềm năng lớn, nhưng chưa thể đưa vào quy hoạch.

Theo quy hoạch, sản lượng khai thác than có thể đạt như sau:

Năm 2015: 55 triệu tấn; năm 2020: 60 triệu tấn; 2030: 70 triệu tấn.

Để có thể đạt được kế hoạch đề ra cần thực hiện hàng chục dự án mở rộng các mỏ: Cẩm Phả, Hòn Gai, Uông Bí, Na Dương,… Riêng bể than ĐBSH, Quy hoạch than chỉ mới ghi: Lựa chọn một số diện tích chứa than có triển vọng, có điều kiện địa chất - mỏ thích hợp để tiến hành thăm dò phục vụ việc đầu tư khai thác thử nghiệm; phấn đấu đến 2030 hoàn thành công tác thăm dò phần diện tích chứa than có điều kiện khai thác thuận lợi thuộc vùng Khoái Châu - Tiền Hải; đến 2020 có sản lượng 0,5-1 triệu tấn, 2025: 2 triệu; 2030: khoảng 10 triệu tấn.

Còn vấn đề nhập than chủ yếu cho sản xuất điện mấy năm qua được đề cập khá nhiều, tuy nhiên chưa có giải pháp nào chắc chắn, bền vững.

(5) Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả

Đây là khâu cực kỳ quan trọng, nó được đánh giá là tạo ra nguồn năng lượng sạch giá rẻ, là quốc sách thâm canh trong năng lượng. Chúng ta đã xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, thực hiện các chương trình, dự án TK&HQNL, tuy hoạt động khá sôi nổi, nhưng tính lan tỏa và hiệu quả còn hạn chế. Mức độ tiết kiệm chưa được đánh giá đầy đủ và tin cậy.

Chúng ta cần xây dựng các chỉ tiêu pháp lý cho hoạt động này.

Nhận định chung

Tiềm năng, trữ lượng các nguồn dầu - khí của Việt Nam được đánh giá không dồi dào; Tiềm năng kinh tế - kỹ thuật thủy điện cơ bản đã được sử dụng; Các nguồn NLTT mới bước đầu được đánh giá và khai thác với giá còn cao; Tiềm năng, trữ lượng than được đánh giá tuy không nhiều, nhưng là khả thi trong giai đoạn tới; Nhu cầu than của Việt Nam tới đây vẫn tăng cao, có nhiều thách thức về thăm dò bổ sung trữ lượng, đặc biệt là than nâu ở Đồng bằng Sông Hồng; nghiên cứu ứng dụng công nghệ than sạch để sử dụng hiệu quả.

Biến đổi khí hậu và phát thải khí nhà kính trong năng lượng Việt Nam

Theo dự báo của quốc tế, Việt Nam là một trong năm nước có nguy cơ tổn thương nặng nề do BĐKH, trái đất nóng lên, thời tiết cực đoan, nước biển dâng, gây xâm thực mặn, nay tình hình đã là hiện hữu, một số vùng ven biển và đặc biệt là Đồng bằng Cửu Long đã bị xâm thực mặn và hạn hán, thiệt hại lớn về kinh tế và sinh kế dân cư. Nguyên nhân quan trọng nhất đã đựơc xác định là lượng phát thải KNK toàn cầu tăng nhanh do hoạt động của con người.

Việt Nam là nước đang phát triển, nhưng đã ký và phê chuẩn sớm Công ước khung về BĐKH của Liên hợp quốc từ 1992 và nhiều nghị định, văn bản khác, cam kết cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hành tinh.

Gần đây, năm 2015 Việt Nam đã cùng trên 190 nước và vùng lãnh thổ cam kết Thỏa thuận Paris ứng phó với BĐKH. Việt Nam đã thực hiện, đóng góp nhiều nội dung về giảm thiểu, thích ứng với BĐKH. Trong đó có công tác kiểm kê KNK quốc gia, nội dung quan trọng của Thông báo quốc gia về BĐKH trình Ban Thư ký Công ước.

Vừa qua, Việt Nam đã thực hiện kiểm kê KNK quốc gia và từng lĩnh vực cho năm 2010 và ước tính cho giai đoạn đến 2020 và 2030 - kết quả tương ứng các năm là 226; 466; 760 triệu tấn CO2tđ. Trong đó, lĩnh vực năng lượng chiếm tỷ trọng lớn, theo các năm tương ứng là 62; 82; 85%.

Riêng lĩnh vực năng lượng, kết quả kiểm kê KNK năm 2010 [7] cho các hoạt động chi tiết được trình bày trong bảng 2. Trong đó hoạt động đốt nhiên liệu chiếm tới 88%, trong hoạt động đốt nhiêu liệu thì công nghiệp năng lượng, mà chủ yếu là đốt than ở các nhà máy điện chiếm tới gần 30% (29 triệu tấn CO2tđ).

Bảng 2. Phát thải KNK trong lĩnh vực năng lượng năm 2010. Đơn vị: nghìn tấn CO2

Nguồn phát thải

Tổng

Tỷ lệ-%

Đốt nhiên liệu

124.275,0

88,03

- Công nghiệp NL

41.057,9

29,08

- CNSX&XD

38.077,6

26,97

- GTVT

31.817,9

22,54

- TM&DV

3.314,2

2,35

- Dân dụng

7.097,6

5.03

- NN-LN-Thủy sản

1.630,8

1,16

- Các ngành khác không sử dụng năng lượng

1.279,0

0,91

Phát tán

16.895,9

11,97

- Nhiên liệu rắn

2.243,1

1,59

- Dầu và khí

14.652,7

10,38

Tổng cộng

141.170,8

100

       Nguồn: BC kiêm kê KNK năm 2010 và DA 2014, Bộ TN&MT

Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam

Thực trạng tiêu thụ năng lượng Việt Nam thời gian qua tăng khá nhanh. Theo thống kê của Chương trình mục tiêu QG về TK&HQ năng lượng, tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam năm 2012 là 56,7 tr TOE, trong đó than chiếm 25,6%, khí đốt 14,5%. Với tốc độ tăng 7%/năm, tiêu thụ NLSC năm 2015 được đánh giá khoảng 70 tr TOE.

Điện thương phẩm 5 năm gần đây tăng khoảng 10-11%/năm. Cụ thể năm 2011: 98,5 tỷ; 2012: 105,4 tỷ; 2013: 117,0 tỷ; 2014: 128,4 tỷ; 2015: 141,8 tỷ kWh.

Quy hoạch điện VII được điều chỉnh (QHĐ VII ĐC) Chính phủ đã phê duyệt 3-2016 [1,2], tổng điện năng sản xuất so với QHĐ VII, được điều chỉnh giảm khoảng 20%. Cụ thể: năm 2015: 164 tỷ; 2020: 265; 2025: 400; 2030: 575 tỷ kWh. Trong đó, nhiệt điện than vẫn có tỷ trọng lớn, trên 50% tổng sản xuất điện, thủy điện giảm từ 25 xuống 12,4%, điện từ khí đốt ở mức 17-19%, điện tái tạo tăng 6,5-6,9% giai đoạn 2020-25 lên 10,7% vào 2030. So với QHĐ VII, tỷ trọng điện năng tái tạo được điều chỉnh tăng 1,8 lần, nhưng lượng tuyệt đối không tăng nhiều chỉ 1,3 lần, vì tổng điện năng sản xuất giảm 20%.

Với những chỉ tiêu này chỉ mới đạt 60-70% mục tiêu của Chiến lược phát triển NLTT.

Cơ cấu công suất, sản lượng theo loại nguồn năng lượng đến năm 2030 được trình bày trong bảng 3; Công suất, sản lượng nhiệt điện than đến 2030 được trình bày trong bảng 4; Dự báo phát triển điện năng từ NLTT được trình bày trong bảng 5.

Bảng 3. Cơ cấu công suất, sản lượng điện theo loại nguồn đến 2030 [ %]

 

2020

2025

2030

Cơ cấu CS

Cơ cấu SL         

Cơ cấu CS

Cơ cấu SL        

Cơ cấu CS

Cơ cấu SL        

Thủy điện+tích năng

30,1

25,2

20,1

17,4

16,9

12,4

Nhiệt điện than

42,7

49,3

50,0

55,0

42,7

53,3

Nhiệt điện khí+dầu

14,9

16,6

15,8

19,0

14,7

16,8

TĐn+NLTT

9,9

6,5

12,5

6,9

21,0

10,7

Nhập

2,4

2,4

1,5

1,6

1,2

1,2

Điện HN

0

0

0

0

3,6

5,7

                                                                                                                                                                                                      Nguồn: QHĐVII-ĐC 2016

Bảng 4. Công suất và sản lượng điện nhiệt điện than đến 2030

 

Số lượng (n/m)

Tổng công suất điện than MW

Tỷ trọng công suất NĐT

Tổng sản xuất điện từ nhiệt điện than (tỷ kWh)

Tỷ trọng

Tiêu thụ than tr T

2015

19

1357

33,4

56,4

34,3

24

2020

31

25787

42,7

130,9

49,3

35

2025

47

45152

47,3

220,1

55,0

72

2030

 

52

55252

42,7

304,5

53,3

105

Nguồn: QHĐ7ĐC     

Bảng 5. Dự báo phát triển điện năng từ NLTT đến 2030

Năm

Công suất NLTT MW

Tỷ trọng trong sx điện %

Tổng sx điện NLTT tr kWh

Tỷ trọng tổng sx điện %

2015

2.046

5,2

6.047

3,9

2020

6.004

9,9

17.265

6,5

2025

12.000

12,6

27.760

6,9

2030

27.200

21

60.900

10,7

      Nguồn QHDD7ĐC

Phát triển nhiệt điện than trong bối cảnh BĐKH

Từ số liệu QHĐ VII cho thấy, nhu cầu năng lượng Việt Nam nói chung và nhu cầu điện nói riêng tăng nhanh. Các nguồn năng lượng Việt Nam không giàu, BĐKH là hiện hữu và thách thức lớn; dự báo nhu cầu lớn, các nguồn điện tăng nhanh. Đặc biệt nhiệt điện than dự kiến đưa vào ồ ạt, ngay từ khi thẩm định, nhiều chuyên gia đã cảnh báo quy hoạch khó thực hiện, nhất là yêu cầu than và nhiệt điện than. Chỉ sau vài năm thực hiện, thực tế đã thấy bất cập. Tháng 3-2016, QHĐ VII đã được điều chỉnh. Tuy nhiên việc điều chỉnh chưa thể hiện tính đột phá, ý chí chuyển đổi sử dụng năng lượng. Về cách thực hiện điều chỉnh vẫn tiến hành theo phương thức cũ, các phân ngành điện, than, dầu - khí, NLTT vẫn tiến hành riêng lẻ, chưa thực hiện cân bằng năng lượng sơ cấp như Luật Điện lực 2013 đã quy định [5].

Đối với Việt Nam, than là nguồn hiện hữu, có khả năng phát triển trong nước, việc phát triển nhiệt điện than với tỷ trọng cao là hợp lý, không phải là ngoại lệ, ngược xu thế như ý kiến một số chuyên gia. Tuy nhiên với bối cảnh 10-15 năm tới, với tỷ trọng trên 54-55% là quá cao; điện từ NLTT với tỷ trọng 7-10% vào 2025-30 còn khiêm tốn. QHĐ VII điều chỉnh chưa có những tính toán thuyết phục về sự cạnh tranh giữa các nguồn, mức độ dự phòng hệ thống, khả năng đầu tư…

Gần đây, với những tiến bộ đột phá về công nghệ NLTT [9,10], năm 2015 giá điện gió trên bờ giảm 30%, giá điện mặt trời giảm 60% so với năm 2010. Hiện nay giá điện gió, mặt trời đã ở mức 6-8cents/kWh, có khả năng cạnh tranh với nhiệt điện than, nếu giá điện nhiệt điện than được tính đủ chi phí môi trường và xã hội.

Theo dự báo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), đến 2020, giá điện gió và mặt trời sẽ tiếp tục giảm tương ứng 10 và 20% so với 2015. Như vậy, khả năng cạnh tranh của điện NLTT sẽ còn cao hơn.

Những năm gần đây, nhiều nước phát triển và cả đang phát triển đã có bước phát triển ngoạn mục về NLTT. Năm 2014, ngoài Mỹ, Trung Quốc có công suất điện tái tạo lớn, một số nước có tỷ trọng điện NLTT cao như Đức đáp ứng 28% tổng nhu cầu; điện gió đáp ứng 33% tổng nhu cầu ở Đan Mạch; 21% ở Tây Ban Nha... Đặc biệt, một số nước hướng tới sử dụng 100% điện tái tạo vào 2020 như: Scotland, Djibouti. Dự kiến sau Thỏa thuận Paris-2015, tỷ trọng NLTT sẽ chiếm 2/3 tổng công suất các nhà máy điện trên toàn thế giới được xây dựng trong giai đoạn 2016-2020.

Việc xác định các nguồn năng lượng nói chung và nguồn điện tham gia hệ thống điện nói riêng (kể cả nguồn hạt nhân), cần xuất phát từ nhu cầu năng lượng cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội được dự báo một cách khoa học, khả năng các nguồn trong nước và nhập ngoại, khả năng tài chính của quốc gia, công nghệ, môi trường, nghiên cứu tính toán quy hoạch một cách căn cơ, toàn diện, so sánh tính cạnh tranh kinh tế-kỹ thuật-môi trường, để xác định cơ cấu các nguồn hợp lý nhất cho từng giai đoạn phát triển.

Việc sử dụng than, đặc biệt cho nhiệt điện có khả năng sẽ giảm nhiều, nhưng cần nghiên cứu xác định tỷ trọng hợp lý nhiệt điện than, cũng như các nguồn khác, thông qua bài toán tối ưu Quy hoạch tổng thể Năng lượng Quốc gia [6,8]. Đồng thời xây dựng và ban hành các chỉ tiêu cho phép đối với nhà máy nhiệt điện về công nghệ, phát thải CO2, khí độc, bụi, địa điểm xây dựng.

Kiến nghị

Đề nghị Bộ Công Thương phối hợp các bộ, ngành liên quan rà soát, đánh giá chính xác hơn tiềm năng, trữ lượng các dạng năng lượng, dự báo nhu cầu năng lượng, nhu cầu điện với độ tin cậy cao, tổ chức xây dựng cân bằng năng lượng sơ cấp (Quy hoạch Năng lượng tổng thể quốc gia), theo đúng Luật Điện lực 2013, làm cơ sở khoa học và pháp lý cho quy hoạch phát triển các phân ngành: Điện, Than, Dầu-Khí, NLTT. Từ đó sẽ xác định được cơ cấu tối ưu sử dụng các nguồn năng lượng, cơ cấu nguồn điện, đặc biệt là giảm hợp lý tỷ trọng nhiệt điện than trong bối cảnh BĐKH.

                                                                            Hà Nội, ngày 20/4/2016

Tài liệu tham khảo chính:

1.     QHĐ VII - 2011

2.     QHĐ VII ĐC - 2016

3.     QH phát triển ngành than, 2012 và ĐC

4.     QH dầu-khí - 2013

5.     Luật Điện lực - 2013

6.     Bùi Huy Phùng-Phương pháp tính toán tối ưu phát triển bền vững HTNL, NXBKHKT, Hà Nội, 2011

7.     BC KK KNK quốc gia 2010, Bộ TN&MT

8.     Bùi Huy Phùng - Quy hoạch năng lượng tổng thể là cơ sở khoa học và pháp lý cho quy hoạch các phân ngành năng lượng, Tạp chí Năng lượng Việt Nam, 6-2012

9.     Bùi Huy Phùng - Xu thế phát triển NĐ than trong bối cảnh BĐKH trên thế giới, Tạp chí Năng lượng Việt Nam, 12-2015

10.  IEA-Renewable Energy Medium Term Market Report 2014&2015

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động