RSS Feed for Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 11) | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ ba 19/03/2024 18:25
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 11)

 - Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa đất nước theo hướng phát triển bền vững. Vì vậy, việc phát triển bền vững các ngành công nghiệp có liên quan đến khai thác, chế biến và sử dụng nhiên liệu than là yêu cầu tất yếu khách quan...

Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 1)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 2)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 3)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 4)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 5)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 6)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 7)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 8)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 9)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Bài 10)

BÀI 11: XÚC TÁC: GIẢI PHÁP CHO CÁC NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN THAN

Thực trạng các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam

Năm 2015, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện của nước ta khoảng 13.000 MW sản xuất 48,5 tỷ kWh (chiếm hơn 30% tong sản lượng điện của cả nước), tiêu thụ khoảng 24 triệu tấn than trong nước thải ra hàng triệu tấn tro xỉ.

Theo Quy hoạch phát triển điện lưới quốc gian năm 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện 7 điều chỉnh (QHĐ VII HC) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 3 năm 2016), Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển các nhà máy nhiệt điện than với tỷ lệ thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố của các nguồn nhiên liệu. Trong đó, khai thác tối đa nguồn than trong nước cho phát triển các nhà máy nhiệt điện, ưu tiên sử dụng than trong nước cho các nhà máy nhiệt điện khu vực miền Bắc.

Đến năm 2020, tổng công suất khoảng 26.000 MW, sản xuất khoảng 131 tỷ kWh điện, chiếm khoảng 49,3% điện sản xuất, tiêu thụ khoảng 63 triệu tấn than. Năm 2025, tổng công suất khoảng 48.000 MW, sản xuất khoảng 220 tỷ kWh điện, chiếm khoảng 55% điện sản xuất, tiêu thụ khoảng 95 triệu tấn than và năm 2030, tổng công suất khoảng 55.000 MW, sản xuất khoảng 300 tỷ kWh chiếm 53% điện sản xuất, tiêu thu 129 triệu tấn than.

Do nguồn than sản xuất trong nước hạn chế, nên các trung tâm điện lực tại Đồng bằng sông Cửu Long như: Duyên Hải, Long Phú, Sông Hậu, Long An... sử dụng nguồn than nhập khẩu [1].

Hình 1: Phủ bạt, phun nước và đầm nén tại bãi tro xỉ của nhà máy nhiệt điện. (Ảnh: TTXVN)

Trong quá trình đốt than có 2 nguồn thải chính là chất khí và chất rắn. Trong nguồn thải khí, ngoài các chất CO2, CO, NOx và SOx… có thể còn có một số kim loại bay hơi. Nguồn thải rắn chủ yếu gồm có khoảng 15 - 20% chất vô cơ không cháy và cả lượng than chưa cháy hết bị dính vón thành các hạt lớn và rơi xuống đáy lò gọi là xỉ than hay tro đáy (bottom ash)  và 80 - 85% chất vô cơ không cháy còn lại có cỡ hạt rất bé (nhỏ hơn 1% millimet) bay theo khói lò gọi là tro bay (fly ash) thường được thu hồi bằng hệ thống lọc bụi tĩnh điện hiệu suất đến 99,75%. Lượng tro xỉ (xỉ than và tro bay) phụ thuộc rất nhiếu vào chủng loại than, chẳng hạn với than cám 5 Quảng Ninh tỷ lệ tro chiếm tới 30%, trong khi đó với hầu hết than nhập khẩu là dưới 10%.

Hiện nay, việc sử dụng tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện than còn có rất nhiều hạn chế, vướng mắc. Theo Vụ Vật liệu xây dựng thuộc Bộ Xây dựng, cho đến nay, ngoài Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại tận dụng nguồn tro xỉ thải làm nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng và cho một số hoạt động xây dựng khác, các nhà máy nhiệt điện than còn lại chưa áp dụng bất cứ giải pháp gì để sử dụng nguồn tro xỉ của mình, gây ra tình trạng phải sử dụng hàng ngàn héc ta đất làm bãi thải, bãi chôn lấp tro xỉ. Đây chính là mầm mống của thảm họa môi trường trong tương lai không xa [2].

Việc sử dụng tro bay của các nhà máy nhiệt điện than cũng là vấn đề không đơn giản, trong trường hợp, nếu lượng tro bay đảm bảo đạt tiêu chuẩn quy định thì đều được công nghiệp xi măng đón nhận toàn bộ. Tuy nhiên, việc hạ thấp hàm lượng than cháy không hết trong tro để đạt tiêu chuẩn là nhiệm vụ khó khăn và rất tốn kém. Một số dự án đã tính đến những phương án tiên tiến hạ tỷ lệ than cháy không hết trong tro (ví dụ như sử dụng thiết bị lọc bụi tĩnh điện để tách than cháy không hết…) nhưng chưa thấy khả thi về mặt kinh tế. Vì vậy, sự tồn đọng tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện đốt than ở nước ta vẫn còn là vấn đề chưa có cách giải quyết, bãi chứa tro xỉ các nhà máy nhiệt điện đốt than ngày càng phình to, lấy mất nhiều đất nông, lâm nghiệp.

Hình 2: Nếu giảm hàm lượng carbon thì tro có thể cung cấp cho các nhà máy xi măng.

Giải pháp cho các nhà máy nhiệt điện

Để giảm thiểu tác động môi trường của nhiệt điện than cần áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến ở mức có thể chấp nhận được đối với điều kiện kinh tế của nước ta để giảm thiểu khối lượng phát thải cũng như thực hiện các giải pháp hữu hiệu thu gom, xử lý và sử dụng các chất phế thải rắn để sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng.

Theo tính toán của các chuyên gia năng lượng, muốn xử lý được hậu quả của việc đốt than một cách có hiệu quả, đảm bảo đáp ứng hoàn toàn các điều kiện về môi trường của nhiệt điện than sạch, thì phải tăng chi phí đầu tư thêm khoảng 40-60%. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, một đất nước đang phát triển thì chỉ có thể chấp nhận một mức đầu tư phù hợp, có thể dung hòa - vừa không ảnh hưởng quá đến môi trường sinh thái vừa đảm bảo chỉ tiêu kinh tế.

Một giải pháp đơn giản và hiệu quả nhằm giảm lượng phát thải cuả các nhà máy nhiệt điện than là sử dụng chất xúc tác CC-88 (Coal Catalyst-88) đốt kèm.

Công ty Asia Coal Catalyst tại Mỹ đã sản xuất xúc tác cho quá trình đốt cháy than - CC-88 cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện, xi măng từ nhiều năm nay. Giải pháp này mang lại nhiều hiệu quả với chi phí đầu tư thấp và có thể triển khai nhanh chóng [3,4].

1. Sử dụng xúc tác CC-88 có thể tiết kiệm lượng than tiêu tốn

Khi có mặt của xúc tác CC-88, phản ứng cháy diễn ra với hiệu suất cao hơn và dẫn đến kết quả là tiết kiệm được lượng than tiêu tốn. Mức tiết kiệm tùy thuộc vào chất lượng than, loại lò đốt và các yếu tố vận hành tại nhà máy, thông thường mức tiết kiệm than khoảng 5% khi dùng xúc tác tỉ lệ 0,5 - 1,0 kg/tấn than.

2. Sử dụng xúc tác CC-88 giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Xúc tác CC-88 làm giảm các khí phát thải ô nhiễm như: CO, SOx, NOx, PM2.5, PM 10…

3. Sử dụng xúc tác CC-88 làm tăng chất lượng tro thải

Xúc tác CC-88 giúp cho quá trình cháy của than diễn ra với hiệu suất cao hơn, kết quả là hàm lượng carbon chưa cháy trong các loại tro bay và tro đáy giảm xuống dưới 5%. Do đó, các loại tro này hoàn toàn có thể cung cấp cho các nhà máy xi măng, hay các ngành sản xuất vật liệu xây dựng thay vì chôn lấp gây ô nhiễm như hiện nay. Nhiều nơi đã và đang cố gắng hoàn thiện các công nghệ như tuyển nổi để tách hay làm giảm carbon trong tro nhưng với chi phí cao, cần mặt bằng và vốn đầu tư không nhỏ.

4. Sử dụng xúc tác CC-88 làm giảm chi phí vận hành

Một đặc điểm của xúc tác CC-88 là giảm sự hình thành xỉ bám trong lò đốt, giúp cho quá trình truyền nhiệt hiệu suất cao hơn. Nhưng quan trọng hơn cả là các nhà máy sẽ tiết giảm thời gian dừng lò để làm vệ sinh với chi phí khá tốn kém. Ngoài ra, xúc tác CC-88 làm giảm quá trình ăn mòn và bào mòn các thiết bị của lò đốt, giảm các chi phí bảo trì, tăng tuổi thọ cho các thiết bị.

Hình 3: Mô hình đưa xúc tác CC-88 vào hệ thống đốt than tại nhà máy nhiệt điện.

Ngoài 4 lợi ích nêu trên, việc sử dụng xúc tác CC-88 trong các nhà máy nhiệt điện còn có ý nghĩa rất lớn với các nhà máy hiện đang hoạt động là không cần đầu tư bổ sung các hạng mục công trình nhằm giảm thiểu phát thải ô nhiễm; không cần đầu tư các dây chuyền tách carbon trong tro để thương mại; chi phí mua xúc tác rất thấp so với các lợi ích mang lại.

Kết luận

Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa đất nước theo hướng phát triển bền vững. Vì vậy, việc phát triển bền vững các ngành công nghiệp có liên quan đến khai thác, chế biến và sử dụng than là yêu cầu tất yếu. Việc dùng than để sản xuất năng lượng đang là một trong những nguyên nhân gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Đồng thời còn tạo ra khối lượng lớn tro xỉ và là nguồn gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí.

Hiện nay các nhà máy nhiệt điện than chỉ chú trọng đến chức năng sản xuất điện, chưa thật sự quan tâm, hay chưa có giải pháp cụ thể cho các chất phát thải khí và rắn. Do đó, chất phát thải vừa có chất lượng kém, vừa không đồng đều chất lượng, nên không thể sử dụng được cho các ngành khác, chưa kể còn gây ô nhiễm trầm trọng đến môi trường xung quanh. Việc xây dựng các nhà máy tuyển tro xỉ nhiệt điện là một phong trào đầu tư tự phát nên không tránh khỏi một số tồn tại về công nghệ, thiết bị, chỉ tiêu, năng lượng, nước, kinh tế và bảo vệ môi trường…

Xúc tác CC-88 đã được sử dụng thành công nhiều năm và tại nhiều nước như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ… Ngoài giảm thiểu khí phát thải ô nhiễm; chuyển hóa phát thải tro xỉ thành nguyên liệu hữu ích cho ngành xi măng, vật liệu xây dựng; tiết kiệm được lượng than tiêu thụ… việc đưa xúc tác CC-88 vào sử dụng cho các nhà máy làm giảm chi phí đầu tư, mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho doanh nghiệp và xã hội. Do đó, có thể khẳng định đây là một giải pháp mà các nhà máy nhiệt điện cần quan tâm, nghiên cứu và triển khai.

NGUYỄN LONG, CHUYÊN GIA NĂNG LƯỢNG - MÔI TRƯỜNG

Tài liệu tham khảo

1. http://www.erav.vn/d4/news/Dieu-chinh-Quy-hoach-phat-trien-dien-luc-quoc-gia-3-464.aspx

2. www.trobayvietnam.com

3. http://www.coalcatalyst.com

4. http://www.coaladditives.com

(Khi sao chép, trích dẫn nội dung, số liệu từ bài viết này phải ghi rõ "nguồn", hoặc "theo": TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM)

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động