RSS Feed for Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ bảy 01/03/2025 21:15
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam

 - Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các nguồn tài nguyên truyền thống đang dần cạn kiệt, do đó việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên khoáng sản mới thay thế là việc làm cần thiết trong tương lai. Khoáng sản rắn đáy biển được coi là một trong những nguồn tài nguyên tiềm năng mới có thể đáp ứng một phần nhu cầu khoáng sản của thế giới. Bài viết khái quát về tình hình tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn đáy biển trên thế giới, trong khu vực, cũng như ở Việt Nam và đưa ra một số nhận định về khả năng thực hiện tại Việt Nam.
Những thuận lợi và khuyết thiếu cần bổ sung cho dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Những thuận lợi và khuyết thiếu cần bổ sung cho dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam

Như chúng ta đều biết, Chỉ thị đầu tiên của năm 2025 (số 1/CT-TTg, ngày 3/1) Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ trưởng Công Thương chỉ đạo triển khai, hoàn thành công tác đầu tư dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong 5 năm. Sau chỉ đạo của Thủ tướng, câu hỏi được dư luận quan tâm là: Trong khoảng thời gian này, chúng ta có thể hoàn thành được không? Để giải đáp phần nào cho nội dung này, bước đầu, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam có một số trao đổi, nhận định, đề xuất dưới đây.

1. Giới thiệu chung:

Các đại dương (Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương và Nam Nam Cực) bao phủ hơn 70% bề mặt Trái đất. Có nhiều loại khoáng sản biển có thể được tìm thấy dưới đại dương bao gồm hai loại là khoáng sản rắn và khoáng sản không rắn. Các khoáng sản rắn kim loại nặng như: Barium, crom, vàng, sắt, các nguyên tố đất hiếm, thiếc, thorium, volfram và zirconium. Các khoáng sản rắn không kim loại bao gồm: Kim cương, vôi, cát silic và sỏi. Các khoáng sản không rắn bao gồm nhiên liệu hóa thạch như: Dầu mỏ, khí tự nhiên.

Khoáng sản rắn đáy biển đến nay đã được công nhận là nguồn tài nguyên tiềm năng trong tương lai với nhiều nguyên tố quý hiếm sinh kèm như: Co, Ti, Mn, Ni, Pt, Zr, Nb, Te, Bi, Mo, W, Th và các nguyên tố đất hiếm khác. Các khoáng sản dưới đáy biển được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp, đặc biệt rất quan trọng trong các lĩnh vực điện tử và công nghệ xanh như: Sản xuất linh kiện máy bay, điện thoại thông minh, máy tính bảng, ô tô điện, tua bin gió và pin [1].

Các khoáng sản có nhu cầu hàng đầu được tìm thấy ở đáy biển là kết hạch đa kim (Polymetallic Nodules - PMN), vỏ sắt - mangan giàu cobalt (Cobalt - Rich Ferromangan Crusts - CRC) và sulfide đa kim, hay sulfide dạng khối dưới đáy biển (Polymetallic Sulfides hay Seabed Massive Sulfides - SMS). Những khoáng sản này có giá trị và có các thành phần khác nhau. Kết hạch đa kim chứa các khoáng sản như: Mangan, nickel, sắt, đồng, cobalt, magnesium và titan. Lớp vỏ sắt-mangan giàu cobalt chứa cobalt, nickel, platinium, đồng, titan, volfram và cerium. Trong khi đó, sulfide đa kim hay sulfide dạng khối dưới đáy biển (SMS) bao gồm các khoáng sản như: Đồng, chì, kẽm, vàng và bạc. Thành phần khoáng sản quý hiếm cao trong mỗi loại khoáng sản dưới đáy biển khiến chúng trở nên được ưu tiên tìm kiếm, thăm dò hơn so với các loại khoáng sản trên đất liền [2].

2. Tình hình tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn đáy biển trên thế giới và trong khu vực:

Theo tổng hợp các nghiên cứu: Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn đáy biển của Lê Chi Mai và các tác giả VPI, 2021 [3], các kết hạch đa kim được phát hiện vào cuối thế kỷ 19 ở biển Kara, thuộc Bắc Băng Dương ngoài khơi Siberia (1868). Trong các cuộc thám hiểm khoa học của H.M.S. Challenger (1872-1876), chúng được tìm thấy ở hầu hết các đại dương trên thế giới. Khảo sát có tính hệ thống đầu tiên về các vùng vỏ sắt mangan giàu cobalt do tàu R. V. Sonne của Đức tiến hành năm 1981, được thực hiện ở quần đảo Line ở phía Nam đảo Hawai. Các khảo sát tiếp theo của Đức, của Cục Địa chất Mỹ và Đại học Hawai ở Trung tâm Thái Bình Dương.

Trong những năm 1980-1990, các báo cáo về các tích tụ sắt - mangan ở vùng đảo Christmas, núi ngầm Afanasiy - Nikitin ở Ấn Độ Dương, cũng như khu vực đảo Marshall ở Thái Bình Dương; tìm kiếm thăm dò sulfide dạng khối ở ngoài khơi Papua New Guinea và New Zealand tiếp tục khẳng định sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và các công ty khai khoáng trong thăm dò, khai thác khoáng sản đáy biển.

Các khu vực có tiềm năng nhất về kết hạch đa kim giàu đồng, nickel là vùng Clarion-Clipperton (CCZ) ở phía đông vùng xích đạo Thái Bình Dương, khu vực biển Peru, Nam Đại Tây Dương và trung tâm Ấn Độ Dương (hình 1). Các vỏ sắt - mangan giàu cobalt gặp ở vực biển Penrhyn gần Quần đảo Cook, Nam Thái Bình Dương.

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Hình 1: Các khu vực thăm dò khoáng sản đáy biển (Nguồn: International Seabed Authority - ISA) [4].

Từ những năm 2000 trở lại đây, sự quan tâm về các kết hạch trong các vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zones - EEZs) của các quốc đảo Thái Bình Dương đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2010 mới chỉ có 8 nhà thầu tiên phong ở Pháp, Nga, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Ấn Độ tập trung vào thăm dò các kết hạch đa kim.

Năm 2012, Công ty Dầu khí và Kim loại Nhật Bản (JOGMEC) đã ký với Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) hợp đồng thăm dò vỏ sắt mangan giàu cobalt ở phía đông Nam đảo Minami-Tori-Shima - nơi họ đã tìm kiếm từ 1987.

Tháng 4/2014, Công ty Khoáng sản Nautilus (Canada) đã ký hợp đồng khai khoáng biển sâu đầu tiên trên thế giới với Papua New Guinea. Năm 2015 cỗ máy khai thác khoáng sản biển sâu đầu tiên được Nautilus chế tạo phục vụ khai thác đồng, vàng và các kim loại quý hiếm khác.

Cơ quan Quản lý Đáy biển Quốc tế (International Seabed Authority - ISA) được thành lập theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (United Nations Convention on the Law of the Sea - UNCLOS 1982), có hiệu lực vào năm 1994. ISA có nhiệm vụ tổ chức, điều chỉnh và kiểm soát tất cả các hoạt động liên quan đến khoáng sản tại khu vực đáy biển quốc tế. ISA đã phân bổ một số “khu vực” đáy biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia của các quốc gia (Area) để thăm dò, những khu vực này đã được tìm thấy là nơi tập trung nhiều khoáng sản có giá trị [2].

Tính đến nay đã có 22 nhà thầu tìm kiếm thăm dò kết hạch mangan, vỏ sắt - mangan giàu cobalt và sulfide dạng khối dưới đáy biển ở các khu vực đăng ký với ISA với 31 hợp đồng được ISA phê duyệt. ISA đã ký các hợp đồng 15 năm để thăm dò các kết hạch đa kim, sulfide đa kim và lớp vỏ sắt - mangan giàu cobalt dưới đáy biển sâu với 22 nhà thầu. 19 hợp đồng trong số này là để thăm dò các kết hạch đa kim (PMN) trong đó có 17 hợp đồng ở Đới đứt gãy Clarion-Clipperton (CCZ); 1 hợp đồng ở Bể Trung tâm Ấn Độ Dương (Central Indian Ocean Basin) và 1 hợp đồng ở Tây Thái Bình Dương (Western Pacific Ocean). Có 7 hợp đồng thăm dò sulfide đa kim ở sườn núi Tây Nam Ấn Độ Dương (South West Indian Ridge), sườn núi Trung tâm Ấn Độ Dương (Central Indian Ridge) và sườn núi giữa Đại Tây Dương (Mid - Atlantic Ridge) và 5 hợp đồng thăm dò lớp vỏ giàu cobalt ở Tây Thái Bình Dương (Western Pacific Ocean) [4].

Ngoài các dự án thăm dò khai thác khoáng sản rắn ở các vùng biển sâu quốc tế do ISA quản lý, còn một số dự án thăm dò khai thác khoáng sản rắn đáy biển và các loại khoáng sản khác (như kim cương, phosphorite, sắt) ở các vùng thềm lục địa thuộc quyền tài phán của các nước như: Papua New Guinea, Namibia, Nam Phi, New Zealand, Solomon [1].

Trong khu vực, Trung Quốc tiên phong nghiên cứu, điều tra khoáng sản rắn đáy biển. Trung Quốc đã tiến hành nhiều đợt khảo sát, lấy mẫu đáy biển. Trong các đợt khảo sát Biển Đông (các năm 2011 và 2012), các nhà địa chất Trung Quốc đã phát hiện ít nhất là 8 điểm vỏ và 3 điểm kết hạch mangan được phân loại căn cứ trên hình thái của chúng [3, 5]. Các kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học nguyên tố vết và đất hiếm trong vỏ, kết hạch mangan ở Biển Đông được các nhà khoa học Trung Quốc công bố khá nhiều trong thập niên gần đây. Phân tích thành phần quặng và kim loại hiếm cho thấy hàm lượng cobalt (1.482 g/tấn), đồng (556 g/tấn), nickel (3.130 g/tấn) thấp hơn so với vỏ và kết hạch Fe-Mn đa kim vùng đại dương mở. Nhưng chúng có thành phần đất hiếm (REE) (1.647 g/tấn) và nhóm platin (0,234 g/tấn) cao hơn vùng đại dương mở. Kết quả nghiên cứu quá trình lắng đọng và gắn kết người ta cho rằng vỏ và kết hạch mangan Biển Đông phát triển khá nhanh, khoảng 19 mm/triệu năm.

3. Tình hình nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò khoáng sản rắn đáy biển ở Việt Nam:

Ở Biển Đông Việt Nam, cho đến nay cũng đã có một số nghiên cứu, tìm kiếm khoáng sản đáy biển được thực hiện và đã phát hiện các dấu hiệu tồn tại của chúng. Công trình nghiên cứu “Đặc điểm địa chất và tiềm năng khoáng sản vùng nước sâu Biển Đông” do Nguyễn Thế Tiệp chủ trì, hoàn thành năm 2011 đã đề cập trực tiếp tới triển vọng khoáng sản rắn ở Biển Đông.

Các tác giả đã khảo sát thực địa tại 2 điểm và đã lấy mẫu mangan tại độ sâu 1.000m (Mn40) và 1.900 m (Mn44). Ngoài ra, các tác giả còn thu thập được một số kết hạch sắt - mangan tại vị trí gần núi lửa Đình Trung ở độ sâu 1.300 - 900 m.

Kết quả nghiên cứu cho rằng: Kết hạch sắt - mangan ở Biển Đông được lắng đọng trong thời kỳ Pliocene muộn và đã phát hiện được ở một số nơi ở sườn lục địa ở độ sâu 1.000 - 3.000 m và tồn tại ở phía bắc đáy Biển Đông - vùng hoạt động tách giãn sớm nhất song hàm lượng thấp và thuộc loại vi kết hạch là chủ yếu. Với những vùng biển có độ sâu lớn hơn 4.000 m trong bùn, sét biển sâu, hàm lượng vi kết hạch sắt - mangan thay đổi từ 2%-10%, rất ít nơi đạt 70%. Các tác giả cũng đã khoanh định: Các vùng có hàm lượng kết hạch sắt - mangan cao (từ 5%) tại khu vực sườn lục địa Đông Nam quần đảo Trường Sa.

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Hình 2: Vỏ mangan và kết hạch sắt - mangan từ các điểm lấy mẫu của Trung tâm Địa chất và Khoáng sản Biển năm 2014 [3].

Năm 2014, Trung tâm Địa chất và Khoáng sản biển thực hiện “Báo cáo sơ bộ kết quả khảo sát thực địa địa chất biển, khảo sát sơ bộ tiềm năng khí hydrate và địa chất biển sâu vùng biển Phú Khánh - Tư Chính - Vũng Mây”. Mục tiêu của khảo sát địa chất là để phục vụ đánh giá sơ bộ triển vọng hydrate khí (gas hydrate), song khảo sát cũng đã cung cấp một số thông tin có giá trị trong việc nghiên cứu vỏ mangan và kết hạch sắt - mangan (hình 2). Cào lấy mẫu vỏ mangan và kết hạch sắt - mangan dọc theo sườn dốc và trên hai đỉnh của núi lửa ngầm dưới biển với tổng trọng lượng 4,5 kg. Các lớp vỏ mangan và kết hạch sắt - mangan là loại phổ biến nhất (chiếm khoảng 30%) thường dính kèm đá nền và các mảnh đá nền (70 %). Vỏ mangan và kết hạch sắt - mangan có cấu trúc 1 lớp, lớp vỏ biến đổi dày tới 2,5 cm, trung bình 1-1,5 cm có màu nâu sẫm.

Kết quả nghiên cứu của dự án “Nghiên cứu đặc điểm khoáng hóa, địa hóa và tiềm năng tài nguyên khoáng sản rắn vùng biển sâu Nam Trung bộ phục vụ định hướng điều tra tài nguyên khoáng sản rắn đáy biển sâu” - Mã số TNMT.2019.06.02 được các tác giả Natalia Constantinova, Vũ Trường Sơn và nnk tổng hợp (2022) [6] cho thấy: Hàm lượng của các nguyên tố Fe, Mn, Ni, Co, Si, Al ở khu vực Biển Đông Việt Nam (Trung tâm Biển Đông) khác biệt so với các khu vực Bắc Biển Đông (NSCS), Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương (hình 3).

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Hình 3. So sánh hàm lượng trung bình của Mn, Fe, Ni, Co, Si và Al trong lớp vỏ Fe-Mn ở Trung tâm Biển Đông (CSCS), Bắc Biển Đông (NSCS; số liệu trầm tích Fe-Mn của các khu vực B và C của Zhong et al., 2017 [7]) và từ Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương (PCZ và khu vực phía Nam) (Hein và Koschinsky, 2014 [8]) [6].

Kết hợp với các nghiên cứu địa hóa phục vụ thăm dò dầu khí ở khu vực các lô 129-132 thềm lục địa Việt Nam, năm 2014 Vietgazprom còn kết hợp nghiên cứu vỏ sắt - mangan giàu cobalt đáy biển. Vietgazprom đã lấy mẫu đáy biển với khoảng 2.000 mẫu địa hóa, bề dày các mẫu trung bình là 1,5 m, độ sâu từ 500-1.300 m nước. Kết quả đã phát hiện kết hạch vỏ sắt - mangan giàu cobalt ở lô 130 cho thấy hàm lượng Mn từ 6-11%, sắt tới 2,3-18%, cobalt 0,18% (bảng 1). Chúng phân bố trên đỉnh và sườn các khối núi lửa ngầm.

Bảng 1: Kết quả phân tích mẫu vỏ sắt - mangan ở biển sâu Việt Nam (tổng hợp của VPI, 2021) [3]:

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Hình 4: Các thành tạo Fe-Mn ở Biển Đông Việt Nam. (Nguồn: Natalia Konstantinova, Vu Truong Son và nnk, 2022) [6].

A: Lớp vỏ Fe-Mn ở vị trí Seamount 1 với kết cấu bề mặt nhẵn (trái), bề mặt đáy có các mảnh nền đá vôi sinh học (giữa), cấu trúc một lớp (phải).

B: Lớp vỏ Fe-Mn ở vị trí Seamount 2 với kết cấu bề mặt nhẵn (trái) và bề mặt cắt cho thấy hai lớp có tiếp xúc ranh giới mịn (phải).

C: Lớp vỏ Fe-Mn ở vị trí Seamount 2 với kết cấu bề mặt botryoidal (trái) và bề mặt cắt cho thấy hai lớp có tiếp xúc ranh giới gợn sóng (phải).

D: Lớp vỏ Fe-Mn ở vị trí Seamount 1 đã được vận chuyển và làm tròn, mặt trên (trái) và mặt dưới (phải).

E: Mảnh nền đá vôi với hydroxide Fep-Mn (trái) và bề mặt cắt (phải).

UL - lớp trên; LL - lớp dưới; đường gạch ngang màu vàng - tiếp xúc giữa UL và LL; đường gạch ngang màu đỏ - đường mặt cắt.

Các mẫu kết hạch sắt - mangan thu được bằng cách cào mẫu từ sườn lên đến đỉnh núi ngầm, các kết hạch tập trung ở khu vực trũng giữa các núi và vỏ sắt - mangan giàu cobalt thu được chủ yếu ở sườn núi (hình 5). Kết quả phân tích phổ lượng phát tán cũng cho thấy: Hàm lượng các nguyên tố hiếm và các nguyên tố thuộc nhóm bạch kim tăng, đặc biệt là hàm lượng palladium, cho phép khẳng định sự tồn tại của vỏ cobalt - mangan, các kim loại quý hiếm trong khu vực.

Năm 2021, TS. Lê Chi Mai - Viện Dầu khí Việt Nam và tập thể tác giả cũng đã hoàn thành đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu xác định tiền đề và dấu hiệu tìm kiếm khoáng sản rắn đáy biển sâu khu vực Tư Chính - Vũng Mây” (KC09/40/16-20) [3] thuộc Chương trình KHCN trọng điểm cấp quốc gia “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển” (Chương trình KC09/16-20) do Bộ KHCN quản lý.

Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố khống chế quặng, các tác giả đánh giá các yếu tố thuận lợi, mức độ triển vọng của từng yếu tố khống chế, đồng thời dựa vào kết quả phân tích mẫu, kết hợp xem xét các dấu hiệu tồn tại khoáng sản rắn đáy biển vùng nghiên cứu và lân cận, đã xây dựng bản đồ sinh khoáng, bản đồ phân vùng triển vọng khoáng sản trên nền bản đồ địa chất đáy biển tỷ lệ 1:250.000 với 5 vùng triển vọng ở khu vực Tư Chính - Vũng Mây bao gồm: Vùng dự báo có triển vọng khoáng sản liên quan, vùng dự báo có triển vọng vỏ mangan đa kim, vùng dự báo có triển vọng kết hạch và vùng chưa rõ triển vọng.

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Hình 5: Một số mẫu kết hạch thu được ở khu vực Lô 129-132 [3].

4. Triển vọng tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn đáy biển ở Việt Nam:

Tổng hợp kết quả nghiên cứu phân vùng sinh khoáng Bắc Biển Đông của các tác giả Y. Zhong, F. J. González và nnk, 2017 [7] với các kết quả nghiên cứu về khoáng hóa Fe-Mn khu vực Tư Chính - Vũng Mây của Lê Chi Mai và nnk, 2021 [3] cho thấy: Biển Đông có thể được phân chia thành 4 khu vực sinh khoáng (province). Trong đó, khu vực sinh khoáng D ở Tây Nam Biển Đông với hầu hết là các vỏ phân bố trên các núi ngầm, guyot, hàm lượng Mn < Fe (14,3-18,7) Cu, Ni, Co thấp; V, Sr, B cao là khu vực có tiềm năng khoáng sản rắn đáy biển (hình 6).

Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam
Hình 6: Bản đồ phân vùng sinh khoáng Biển Đông. (Zhong và nnk 2017 [7], Lê Chi Mai và nnk 2021 [3]).

Khu vực A (Đông Bắc): Chủ yếu là kết hạch có chứa các khoáng vật sét, pyrite, barite với hàm lượng Fe cao (13,0-45,5%), Mn thấp (0,03-12,4%), Cu+Co+Ni rất thấp (0,01-0,76%), có mặt vừa phải Mo, Pb, Ba, Co, Ni, V và Cr.

Khu vực B (Tây Bắc): Các vỏ và kết hạch rải rác ở sườn bắc - tây bắc. Có ảnh hưởng của dòng nước sâu Bắc Thái Bình Dương (North Pacific Deep Water - NPDW), hàm lượng Fe và Mn vừa phải (9-20%) và giàu Cu, Co và Ni hơn, đất hiếm (REE) cao.

Khu vực C (Trung tâm): Chủ yếu là các vỏ Fe-Mn phân bố trên núi ngầm phun trào, độ sâu 1000 - >300 m, hàm lượng Mn rất khác nhau (12,4-23,8%) Mo, Co, Ni, Cu cao (0,35-1,21%) V, Cr và Rb thấp.

Khu vực D (Tây Nam): Hầu hết là các vỏ phân bố trên các núi ngầm, guyot, hàm lượng Mn < Fe (14,3-18,7%) Cu, Ni, Co thấp; V, Sr, B cao.

Các nghiên cứu đến nay cho thấy: Vùng biển miền Trung và Nam Việt Nam thuộc vùng (tỉnh) sinh khoáng D đã có các phát hiện vỏ Fe-Mn. Kết quả lấy mẫu đáy biển khu vực các lô 129-132 của Vietgazprom năm 2014 (2.000 mẫu địa hóa, bề dày các mẫu trung bình là 1,5 m, độ sâu từ 500-1.300 m nước) đã phát hiện kết hạch vỏ sắt - mangan phân bố trên các khối núi lửa ngầm ở lô 130 thềm lục địa Việt Nam cho thấy: Hàm lượng Mn từ 6-11%, sắt tới 2,3-18%, cobalt 0,18%. Theo đánh giá sơ bộ của Vietgazprom: Đây là khu vực có tiềm năng cao so với thế giới.

Quản trị và điều phối các vấn đề dưới đáy biển quốc tế, các tài nguyên khoáng sản, sinh học do ISA đảm trách. ISA đang trong quá trình phát triển khung pháp lý để quản trị khai thác biển. Một số quy định trong khung quản lý môi trường biển của ISA theo nguyên tắc của UNCLOS chưa thật rõ ràng. Số lượng hợp đồng thăm dò khoáng sản đáy biển đang có xu hướng gia tăng.

Việt Nam đã bắt đầu thể hiện sự quan tâm đến thăm dò khai thác dưới đáy biển. Trên thực tế, hiện không có luật nào liên quan đến khai thác khoáng sản đáy biển được ban hành ở Việt Nam. Là một quốc gia thành viên của UNCLOS-1982 và Công ước về Đa dạng Sinh học CBD-1992, Việt Nam phải xây dựng một bộ chính sách, quy định và luật pháp liên quan đến khai thác đáy biển để giảm thiểu ảnh hưởng đối với môi trường biển như được nêu trong hai công ước này.

Khoáng sản rắn đáy biển nhận được sự quan tâm ngày càng tăng của cộng đồng thế giới. Ngành dầu khí từ trước đến nay chưa thực hiện nghiên cứu, đánh giá về khoáng sản rắn đáy biển. Ngoài dầu khí truyền thống, các khu vực khác trên vùng biển, thềm lục địa Việt Nam cũng có thể có tiềm năng về khoáng sản rắn đáy biển, đất hiếm, băng cháy (gas hydrate) cần được nghiên cứu, đánh giá tổng thể.

Việc hợp tác nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò khoáng sản rắn đáy biển trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam với các đối tác nước ngoài có thể được xem xét, cân nhắc khi có điều kiện phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay, về pháp lý còn một số vướng mắc cần lưu ý. Cụ thể:

Thứ nhất: Điều lệ hoạt động, cũng như Chiến lược phát triển của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (nay là Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia Việt Nam - Petrovietnam) được Chính phủ phê duyệt chưa quy định có chức năng, nhiệm vụ tìm kiếm, thăm dò, khai thác các khoáng sản khác ngoài dầu khí.

Thứ hai: Về pháp lý, hợp đồng dầu khí chỉ quy định phạm vi hoạt động là thăm dò, khai thác dầu khí trong lô hợp đồng, không đề cập đến hoạt động thăm dò, khai thác các khoáng sản khác. Vì vậy, việc hợp tác với các đối tác trong nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò khoáng sản khác, trong đó có khoáng sản rắn đáy biển cần phải báo cáo và xin giấy phép cấp có thẩm quyền.

5. Kết luận và kiến nghị:

Khoáng sản rắn đáy biển đến nay đã được công nhận là nguồn tài nguyên tiềm năng trong tương lai với nhiều khoáng sản quý hiếm sinh kèm và các nguyên tố đất hiếm khác. Khoáng sản rắn đáy biển ngày càng được quan tâm nghiên cứu hơn một phần vì tài nguyên trên lục địa ngày càng cạn kiệt, một phần nhờ vào sự phát triển công nghệ thăm dò tài nguyên biển.

Khoáng sản rắn đáy biển là một loại tài nguyên mới trên vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (QĐ số 2427/QĐ-TTg ngày 22/12/2011) đã xác định “Ưu tiên đầu tư cho điều tra cơ bản về địa chất về khoáng sản cả phần đất liền và biển, hải đảo để làm rõ tiềm năng tài nguyên khoáng sản”. Định hướng phát triển công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản là “Đánh giá tổng thể tiềm năng một số loại khoáng sản quan trọng: … urani và một số loại khoáng sản khác trong các cấu trúc có tiền đề và dấu hiệu thuận lợi đến độ sâu 500 m, một số khu vực đến độ sâu 1.000 m”.

Ngày 3/4/2023, Chính phủ đã có Nghị quyết số 48/NQ-CP phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, một trong những ưu tiên bố trí không gian biển là cho công tác “tìm kiếm thăm dò, khai thác khoáng sản, dầu khí, các dạng hydrocarbon phi truyền thống, các bể trầm tích tại các khu vực biển Việt Nam”.

Các công trình nghiên cứu, điều tra, khảo sát trong những năm qua cho thấy ngoài dầu khí truyền thống trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam còn có các tiền đề, dấu hiệu của nhiều tài nguyên khác như: Băng cháy (hydrate khí), sắt, mangan, kim loại quý hiếm khác, đất hiếm, vật liệu xây dựng... Việt Nam đang bắt đầu quan tâm đến thăm dò, khai thác dưới đáy biển. Tuy nhiên, trước khi xem xét tham gia vào các hoạt động khai thác khoáng sản đáy biển, nhiều vấn đề cần được giải quyết bao gồm các khía cạnh pháp lý, tác động đến môi trường, công nghệ và đầu tư, vai trò của Chính phủ với tư cách là cơ quan quản lý và điều hành. Nếu không có sự hỗ trợ từ Chính phủ, công tác tìm kiếm, thăm dò sẽ không thể thành công. Việt Nam tiến tới phải xây dựng luật, cơ chế, chính sách cho điều tra, thăm dò, khai thác đáy biển.

Bộ Khoa học và Công nghệ cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước về khoáng sản rắn đáy biển; nghiên cứu, hoàn thiện hệ các phương pháp tìm kiếm thăm dò khoáng sản rắn đáy biển; nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí đánh giá kỹ thuật và kinh tế cho công tác điều tra, thăm dò khoáng sản rắn ngoài biển. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, các bộ báo cáo Chính phủ xem xét, cho phép triển khai điều tra, thăm dò khoáng sản rắn đáy biển ở các khu vực có tiềm năng, gần bờ tiến dần tới các khu vực nước sâu, xa bờ khi có điều kiện phù hợp và tích lũy được kinh nghiệm.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần xây dựng khung pháp lý, các chính sách liên quan đến điều tra, thăm dò, khai thác khoáng sản rắn đáy biển. Khai thác tài nguyên khoáng sản biển là ngành kinh tế mạo hiểm đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật hiện đại, vốn đầu tư lớn và có nhiều rủi ro nên cần có cơ chế thích hợp để thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược, kế hoạch và hợp tác với các đối tác tiềm năng nước ngoài nhanh chóng đào tạo lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật về điều tra, thăm dò, khai thác khoáng sản rắn đáy biển cho các bộ, ngành, các trường đại học, viện nghiên cứu./.

NGUYỄN ANH ĐỨC - PETROVIETNAM; LÊ CHI MAI - VIỆN DẦU KHÍ VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo:

[1] Kathryn A. Miller, Kirsten F. Thompson, Paul Johnston and David Santillo (2018), “An Overview of Seabed Mining Including the Current State of Development, Environmental Impacts, and Knowledge Gaps”, Frontier in Marine Science, Volume 4, Article 418, Jan. 2018. doi: 10.3389/fmars.2017.00418

[2] Nik Munirah Nik Fuad, Wan Izatul Asma Wan Talaat, Mohd Hazmi Mohd Rusli (2017), “Mining the Deep Seabed: Is Malaysia Ready?”, Journal of Asian Social Science, Vol. 13, No. 2 (2017). doi:10.5539/ass.v13n2p107

[3] Lê Chi Mai và nnk (2021), “Nghiên cứu, xác định tiền đề và dấu hiệu tìm kiếm khoáng sản rắn đáy biển sâu khu vực Tư Chính – Vũng Mây”, Báo cáo tổng hợp kết quả KHCN đề tài KC.09.40/16-20 thuộc Chương trình KHCN trọng điểm cấp quốc gia KC.09/16-20 “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển”.

[4] The International Seabed Authority (ISA) webpage: https://www.isa.org.jm

[5] Guan, Y., Sun, X., Ren, Y., Jiang, X. (2017, “Mineralogy, geochemistry and genesis of the polymetallic crusts and nodules from the South China Sea”, Ore Geology Reviews Vol. 89, Oct. 2017, pp 206-227. https://doi.org/10.1016/j.oregeorev.2017.06.020

[6] Natalia Konstantinova, Vu Truong Son, Le Anh Thang, Trinh Thanh Trung, Vu Trong Giang, Nguyen Thi Thuy Dung, Boris Vanshtein, Georgy Cherkashov (2022), “Ferromanganese crusts of the Vietnam margin, central South China Sea: Composition and genesis”, Journal of Marine Geology 453 (2022) 106911. https://doi.org/10.1016/j.margeo.2022.106911

[7] Zhong Y., Gondalez F.J. et al (2017), “Composition and genesis of ferromanganese deposits from the northern South China Sea”, Journal of Asian Earth Sciences 138 (2017) 110–128. http://dx.doi.org/10.1016/j.jseaes.2017.02.015

[8] Hein JR, Koschinsky A (2014), “Deep-ocean ferromanganese crusts and nodules”, Chap. 11. In: Holland HD, Turekian KK (eds) Treatise on geochemistry, vol 13. Elsevier, Oxford, pp 273–291. https://doi.org/10.1016/B978-0-08-095975-7.01111-6

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động