RSS Feed for Năng lượng trong tương quan phát triển kinh tế | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ năm 26/12/2024 19:16
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Năng lượng trong tương quan phát triển kinh tế

 - Nhìn vào tương quan giữa tăng trưởng kinh tế GDP và tổng nhu cầu năng lượng, khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi phải có ngay những giải pháp đột phá bảo đảm an ninh năng lượng.

Những thách thức trong chiến lược phát triển năng lượng Việt Nam
PPP: Kênh dẫn vốn cho năng lượng tái tạo phát triển

Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, có nguồn tài nguyên nhiên liệu năng lượng đa dạng, đầy đủ chủng loại như than đá, dầu khí, thủy điện và các nguồn năng lượng tái tạo khác như năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối, năng lượng gió, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển…, trong đó đáng chú ý tiềm năng lớn là năng lượng mặt trời, gió và sinh khối.

Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam có tính đa dạng, một số loại có tính cạnh tranh cao, nhất là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió và sinh khối. Ảnh: capdienls.com.vn

Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế những năm tới, nhất là từ nay đến năm 2030, Việt Nam đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính.

Nhưng để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước, tiến tới có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng Việt Nam có thế mạnh, PGS.TS Nguyễn thế Chinh, Phó Viện trưởng Viện chiến lược Chính sách tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực.

GDP và nhu cầu năng lượng tăng đều

Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng quốc gia là nguồn lực cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức.

Thực tế phát triển kinh tế những năm qua cho thấy sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp, bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng.

Vấn đề đặt ra làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội những năm tới mà còn có thế xuất khẩu tài nguyên dưới dạng thành phẩm, thích ứng với sự biến động của thị trường, đảm bảo an ninh năng lượng lâu dài cho phát triển kinh tế.

PGS.TS Nguyễn thế Chinh cho biết, hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và các dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030.

Các nghiên cứu này đã đưa ra các kịch bản khác nhau dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn khai thác sử dụng, đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây và kịch bản về tăng trưởng kinh tế cũng như dự báo đến năm 2030.

Sản lượng điện năm 2015 ước đạt 194-210 tỷ kWh. Con số này dự kiến tăng tới 330-362 tỷ kWh vào năm 2020, và đến 695-834 tỷ kWh vào năm 2030 - Tổng cục Năng lượng - Bộ Công Thương.

Về kịch bản tăng trưởng kinh tế tính theo GDP, theo dự báo của nhóm nghiên cứu Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%.

Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biến lớn. Đối với nông lâm thủy sản dao động trong mức 22-3%. Ngành công nghiệp, xây dựng ở mức 7,5 – 9,3%. Ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%.

Nhóm nghiên cứu nhận định, sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm ở mức tăng trưởng đều, đòi hỏi đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp.

Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nhóm nghiên cứu của Viện Chiến lược Phát triển cũng đưa ra kịch bản cơ sở, tính cho giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn.

Tỷ lệ tiêu thụ diện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030. Đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuống còn 18,2%. Sử dụng khí đốt tăng từ 1% lên 1,6%. Sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%. Riêng với năng lượng phi thương mại đã giảm từ 28,9% xuống còn 7,5%.

Xét trong giai đoạn 2010-2030, theo nhóm nghiên cứu, ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng nhất, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý, tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp.

Xét về tương quan tăng trưởng kinh tế và năng lượng giai đoạn 2005-2030, các chuyên gia cho rằng có “một sự tăng đều” và khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là “không tránh khỏi”.

7 giải pháp đột phá

Đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế, xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Thị trường năng lượng cũng giống như các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện trên nguyên lý cung – cầu, khả năng bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần.

Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo Quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25-9-2012, nhiệm vụ Chiến lược đã đạt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10-20% so với phương án phát triển bình thường”. Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20-30% so với phương án phát triển bình thường”, Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”.

PGS.TS Nguyễn thế Chinh cho rằng, nước ta cần thực hiện 7 giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kinh tế.

Thứ nhất, phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam, trên cơ sở đó khai thác lợi thế để phát triển năng lượng nội lực, đảm bảo tính cạnh tranh cao không chỉ với thị trường trong nước mà còn với thị trường khu vực và thế giới.

Thứ hai, đối với những nguồn năng lượng không có ưu thế cạnh tranh trên thị trường, giá cả cao hơn so với nhập khẩu từ các quốc gia khác, Việt Nam nên nhập khẩu, chẳng hạn như nhập than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới hạn chế tối đa nhập khẩu năng lượng.

Thứ ba, thực hiện lộ trình Chiến lược Tăng trưởng xanh, Nhà nước cần có cơ chế chính sách, khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ trong sản xuất và tiêu dùng, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra để đạt chỉ tiêu mỗi năm, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5%.

Thứ tư, nghiên cứu và có cơ chế chính sách phù hợp nhằm khuyến khích sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, mặt trời và sinh học.

Trong ngắn hạn, do chi phí đầu tư và đổi mới công nghệ cao, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, Nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư.

Về dài hạn, cần phát triển năng lượng tái tạo để thay thế dần các nguồn năng lượng hiện tại, sử dụng quá nhiều nhiên liệu đốt ...

Thứ năm, nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, nội dung này phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen.

Thứ sáu, trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế, cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành, kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật được phát huy hiệu quả.

Thứ bảy, huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực.

Một điểm nữa được Phó Viện trưởng Viện chiến lược Chính sách tài nguyên và Môi trường lưu ý, cần theo dõi thực hiện theo định hướng chung của thế giới và cam kết trong Chiến lược Tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức năm 2010 và đến năm 2030 giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%

Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, nhưng trong bối cảnh biến đổi khí hậu, PGS.TS Nguyễn thế Chinh cho đây là cơ hội để Việt Nam huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo, đổi mới công nghệ trong sử dụng tiết kiệm năng lượng.

HẢI VÂN

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động