RSS Feed for Khuyến nghị của IAEA về các cột mốc quan trọng trong phát triển hạ tầng điện hạt nhân quốc gia | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ ba 11/02/2025 23:10
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Khuyến nghị của IAEA về các cột mốc quan trọng trong phát triển hạ tầng điện hạt nhân quốc gia

 - Cho đến nay không có nhiều tài liệu ‘kinh điển’ về điện hạt nhân. Cuốn Milestones in the Development of a National Infrastructure for Nuclear Power (tạm dịch: Những cột mốc trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng hạt nhân quốc gia) của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vừa phát hành được xem là ‘kim chỉ nam’ cho hoạt động này. Tạp chí Năng lượng Việt Nam cập nhật những nội dung chính của ấn phẩm với hy vọng sẽ giúp ích cho chương trình phát triển các dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận.
Những thuận lợi và khuyết thiếu cần bổ sung cho dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Những thuận lợi và khuyết thiếu cần bổ sung cho dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam

Như chúng ta đều biết, Chỉ thị đầu tiên của năm 2025 (số 1/CT-TTg, ngày 3/1) Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ trưởng Công Thương chỉ đạo triển khai, hoàn thành công tác đầu tư dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong 5 năm. Sau chỉ đạo của Thủ tướng, câu hỏi được dư luận quan tâm là: Trong khoảng thời gian này, chúng ta có thể hoàn thành được không? Để giải đáp phần nào cho nội dung này, bước đầu, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam có một số trao đổi, nhận định, đề xuất dưới đây.

Kể từ khi nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) đầu tiên trên thế giới của Liên Xô đi vào hoạt động ngày 27/6/1954, đến nay, ĐHN đã được xây dựng tại 31 quốc gia trên toàn cầu. Cuối tháng 11/2024, Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã thống nhất chủ trương tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Đây là một quyết định quan trọng nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và thực hiện cam kết của Việt Nam với thế giới về phát thải ròng, hay mục tiêu Net zero vào năm 2050.

Theo IAEA: “Những cột mốc trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng hạt nhân quốc gia” là những kinh nghiệm đúc rút qua thực tế phát triển ĐHN của các nước trên thế giới (kể từ sau Thế chiến II kết thúc), nên nghiên cứu, tổng kết này rất thiết thực cho các nước muốn làm ĐHN. Tài liệu trình bày các phương pháp tiếp cận khoa học theo mốc thời gian, toàn diện theo từng giai đoạn để giúp các chính phủ đang cân nhắc, hoặc lập kế hoạch xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên của mình.

Kinh nghiệm từ IAEA cho thấy: Thời gian từ khi một quốc gia cân nhắc lựa chọn điện hạt nhân cho đến khi vận hành nhà máy đầu tiên của mình mất khoảng 10-15 năm.

Mục đích của “Những cột mốc trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng hạt nhân quốc gia” giúp các quốc gia thành viên hiểu được các cam kết và nghĩa vụ liên quan đến việc phát triển chương trình ĐHN. Các quốc gia đã có ĐHN có thể dựa vào đó để đánh giá mức độ nâng cấp, mở rộng các dự án có sẵn.

Ba giai đoạn, ba mốc thời gian:

Phương pháp tiếp cận theo mốc thời gian chia các giai đoạn đầu tư cần thiết để tạo ra cơ sở hạ tầng vững chắc cho chương trình ĐHN với ba giai đoạn. Thời gian của mỗi giai đoạn phụ thuộc vào mức độ cam kết và nguồn lực được quốc gia đầu tư vào ĐHN. Việc hoàn thành mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng một “mốc thời gian” cụ thể. Tại đó, có thể đánh giá tiến độ và đưa ra quyết định về mức độ sẵn sàng chuyển sang giai đoạn tiếp theo.

Ba giai đoạn trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ĐHN bao gồm:

Giai đoạn 1: Đưa ra các cân nhắc trước khi khởi động chương trình ĐHN; nghiên cứu khả thi sơ bộ (tiền khả thi) để giúp thiết lập vị thế quốc gia vững mạnh và trả lời các câu hỏi chính như: Tại sao lại là ĐHN? Khi nào thì bắt đầu vào đầu giai đoạn 1 sau khi ĐHN được đưa vào quy hoạch như một lựa chọn trong chiến lược năng lượng?

Giai đoạn 2: Công tác chuẩn bị để ký kết hợp đồng và xây dựng nhà máy ĐHN sau khi đã đưa ra quyết định chính sách. Trong giai đoạn này, các tổ chức chính, cũng như khuôn khổ pháp lý và quy định được thiết lập.

Giai đoạn 3: Tiến hành ký kết hợp đồng, cấp phép và xây dựng nhà máy.

Việc hoàn thành mỗi giai đoạn nói trên được đánh dấu bằng một mốc cụ thể mà tại đó có thể đánh giá tiến độ dự án và đưa ra quyết định để chuyển sang giai đoạn tiếp theo. Các mốc này bao gồm:

Mốc 1: Sẵn sàng cam kết có hiểu biết về chương trình ĐHN.

Mốc 2: Sẵn sàng mời thầu/đàm phán hợp đồng cho nhà máy điện ĐHN đầu tiên.

Mốc 3: Quan trọng nhất, sẵn sàng đưa nhà máy vào vận hành.

Các vấn đề về cơ sở hạ tầng hạt nhân:

Phương pháp tiếp cận theo mốc bao gồm 19 vấn đề về cơ sở hạ tầng. Thứ tự 19 vấn đề về cơ sở hạ tầng này được coi trọng như nhau và cần được quan tâm thích đáng. Cụ thể bao gồm:

1. Vị thế quốc gia.

2. An toàn hạt nhân.

3. Quản lý.

4. Tài trợ và tài chính.

5. Khung pháp lý.

6. Các biện pháp bảo vệ.

7. Khung pháp lý.

8. Bảo vệ bức xạ.

9. Lưới điện.

10. Phát triển nguồn nhân lực.

11. Sự tham gia của các bên liên quan.

12 Cơ sở và các cơ sở hỗ trợ.

13. Bảo vệ môi trường.

14. Lập kế hoạch khẩn cấp.

15. An ninh hạt nhân.

16. Chu trình nhiên liệu hạt nhân.

17. Quản lý chất thải phóng xạ.

18. Sự tham gia của ngành công nghiệp.

19. Mua sắm.

Ba tổ chức chính tham gia dự án ĐHN:

Ba tổ chức chính tham gia xây dựng chương trình điện hạt nhân bao gồm:

Thứ nhất: Chính phủ nên tạo ra một cơ chế (ví dụ như Tổ chức thực hiện chương trình năng lượng hạt nhân, hay NEPIO) để điều phối công việc của tất cả các tổ chức liên quan. Trách nhiệm chung về an toàn thuộc về chính phủ.

Thứ hai: Phải thành lập một Cơ quan quản lý độc lập, có năng lực. Cơ quan này chịu trách nhiệm giám sát an toàn, cũng như đảm bảo tuân thủ các khuôn khổ pháp lý và quy định.

Thứ ba: Chủ sở hữu/người vận hành phải có năng lực để vận hành nhà máy điện hạt nhân theo cách an toàn và đáng tin cậy, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của quy định.

Tài liệu liên quan đến các mốc quan trọng cho dự án ĐHN:

Để hỗ trợ các quốc gia thành viên thực hiện phương pháp tiếp cận mốc quan trọng, IAEA đã chuẩn bị các tài liệu hướng dẫn khác và cung cấp đào tạo, tư vấn chuyên môn, cũng như các dịch vụ đánh giá ngang hàng, đặc biệt là tài liệu có tên: Đánh giá cơ sở hạ tầng hạt nhân tích hợp (Integrated Nuclear Infrastructure Review - INIR). Dựa trên đánh giá, hay dịch vụ này, IAEA xây dựng một kế hoạch công tác tích hợp cụ thể theo từng quốc gia để hỗ trợ các quốc gia mới tham gia giải quyết các khoảng cách trong cơ sở hạ tầng hạt nhân của họ và tiến hành các đánh giá tiếp theo để theo dõi tiến độ chung của mình.

INIR dùng cho cả các quốc gia có ý định mở rộng, nâng cấp các cơ sở ĐHN có sẵn. Dịch vụ này giúp đảm bảo rằng: Cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc sử dụng điện hạt nhân an toàn, an ninh, bền vững và được phát triển/triển khai theo cách có trách nhiệm, có trật tự.

Kể từ khi ra mắt vào năm 2009, dịch vụ INIR đã được nhiều quốc gia sử dụng rộng rãi trong quá trình phát triển, hoặc mở rộng các chương trình điện hạt nhân của mình. INIR bao gồm bốn bước được xác định rõ ràng. Yêu cầu từ một quốc gia thành viên về dịch vụ này biểu thị cam kết thực hiện tất cả các bước. Cụ thể:

Bước 1: Đánh giá Báo cáo Tự đánh giá (SER) do quốc gia thành viên yêu cầu dịch vụ chuẩn bị. SER dựa trên tài liệu Đánh giá Tình trạng Phát triển Cơ sở hạ tầng Quốc gia (Rev.1) của IAEA. IAEA sẽ xem xét đánh giá của quốc gia về cơ sở hạ tầng hạt nhân của mình và có thể tổ chức một phái đoàn hỗ trợ SER nếu cần.

Bước 2: Tiến hành nhiệm vụ tiền INIR. Trong đó, quy trình INIR sẽ được trình bày và thảo luận với quốc gia thành viên và các điều khoản tham chiếu cho nhiệm vụ INIR chính sẽ được thống nhất.

Bước 3: Tiến hành nhiệm vụ INIR chính. Trong đó, tình trạng cơ sở hạ tầng điện hạt nhân sẽ được nhóm nhân viên IAEA và các chuyên gia bên ngoài xem xét, dựa trên SER, các tài liệu hỗ trợ và phỏng vấn các đối tác chính. Kết quả sẽ là báo cáo nhiệm vụ INIR chính với các khuyến nghị và gợi ý trong các lĩnh vực cần thêm công việc. Các thông lệ tốt sẽ được công nhận.

Bước 4: Nhiệm vụ INIR tiếp theo là để đánh giá việc thực hiện các khuyến nghị và gợi ý được đưa ra trong nhiệm vụ chính. Thời gian, sẽ được thống nhất với quốc gia thành viên (sẽ là 18-30 tháng sau nhiệm vụ chính).

Ngoài ra, còn có tài liệu Tiêu điểm SMR: Phụ lục SMR dài 12 trang đề cập đến 19 vấn đề về cơ sở hạ tầng tương tự, nêu chi tiết cách thức quy mô nhỏ hơn của SMR có thể ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu quan trọng. Nội dung thảo luận tập trung vào “một tập hợp con của các SMR đang trong giai đoạn phát triển nâng cao (chẳng hạn như lò phản ứng nước áp suất tích hợp và lò phản ứng làm mát bằng khí nhiệt độ cao)”.

Theo IAEA: Mốc thời gian triển khai 10-15 năm “dự kiến ​​sẽ ngắn hơn đối với SMR, vì cơ sở hạ tầng được phát triển trong giai đoạn 2, trong một số trường hợp, có thể được thu hẹp quy mô và thời gian xây dựng trong giai đoạn 3 ngắn hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa có dữ liệu nào có sẵn để xác nhận những giả định này”. (Cần lưu ý rằng: Hiện tại, trên thế giới vẫn chưa có lò SMR nào đi vào vận hành thương mại).

Cũng theo IAEA: Nhu cầu chuẩn bị cho SMR “phần lớn giống như đối với các lò phản ứng truyền thống. Chẳng hạn như khuôn khổ pháp lý được quy định chặt chẽ và sự tham gia chủ động của các bên liên quan, cũng như các cân nhắc về bảo vệ môi trường”. “Nhưng do các tính năng độc đáo của chúng (bao gồm công suất đầu ra thấp hơn và thiết kế đơn giản hóa), một số yêu cầu cụ thể về cơ sở hạ tầng có thể khác nhau”./.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Link tham khảo:

https://www.ans.org/news/article-6292/iaeas-updated-milestones-for-nuclearcurious-nations-include-a-focus-on-smrs/

https://www.iaea.org/topics/infrastructure-development/milestones-approach#:~:text=The%20Milestones%20Approach%20splits%20the,resources%20applied%20in%20the%20country.

https://www.iaea.org/sites/default/files/18/01/developing-the-national-nuclear-infrastructure-for-nuclear-power.pdf

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động