RSS Feed for Nhận định, Phản biện Chủ nhật 22/06/2025 09:27
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Điện than trong Quy hoạch điện (lần thứ 15) của Trung Quốc và một số dự báo các nhà quản lý nên tham khảo

 - Đầu tháng 6/2025, nhiều tờ báo trong và ngoài nước đưa tin Trung Quốc phê duyệt tăng sản lượng, công suất các nhà máy điện than sau suy giảm vào năm 2024. Để nhìn thấy bức tranh tổng thế hơn về điện than và nhiệt điện của Trung Quốc, Tạp chí Năng lượng Việt Nam điểm lại sản lượng và công suất đặt điện than đã thực hiện trong những năm gần đây và định hướng cho Quy hoạch điện 15 của quốc gia này sắp tới.
Ý kiến của Bộ Tài chính về các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 gửi Bộ Công Thương Ý kiến của Bộ Tài chính về các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 gửi Bộ Công Thương

Bộ Tài chính vừa có văn bản gửi gửi Bộ Công Thương trao đổi về “Báo cáo của Tạp chí Năng lượng Việt Nam về các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận”. Trong văn bản, Bộ Tài chính thông tin một số nội dung liên quan đến nhiệm vụ đàm phán với các đối tác cung cấp tín dụng; cũng như quan điểm về thời gian, nguồn nhân lực, công nghệ, chi phí đầu tư, đối tác... cho các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, Ninh Thuận 2. Trân trọng gửi tới các cơ quan quản lý, chủ đầu tư, đơn vị liên quan và bạn đọc cùng tham khảo.

Sản lượng nhiệt điện (chủ yếu là điện than) của Trung Quốc theo tháng trong ba năm gần đây cho thấy biến thiên rõ rệt theo mùa. Biến thiên sản lượng điện có hai đỉnh nhu cầu:

1. Mùa hè nhu cầu tiêu dùng điện cao nhất.

2. Mùa đông sản lượng thấp hơn.

Do truyền thống điện than chiếm hơn 90% sản lượng của nhiệt điện, nên trong các báo cáo thống kê quốc gia, Trung Quốc cho con số chung của nhiệt điện, bao gồm điện than, điện khí và điện sinh khối.

Câu hỏi còn để ngỏ về đầu tư phát triển nguồn điện than mới của Trung Quốc sau năm 2030
Hình 1: Sản lượng nhiệt điện của Trung Quốc theo tháng trong 3 năm gần đây.

Sản lượng nhiệt điện và tổng các nguồn điện theo năm tính từ 2005 đến 2023 tăng dần đều với tốc độ khá cao, nhưng tỷ trọng của nhiệt điện giữ ổn định trong giai đoạn 2005-20011, sau đó giảm dần từ 81,34% năm 2011 xuống còn 66,26% vào năm 2023. Đó là do sự phát triển mạnh mẽ của các nguồn điện khác, đặc biệt là điện năng lượng tái tạo, thủy điện, điện hạt nhân.

Bảng 1: Sản lượng nhiệt điện qua các năm:

Năm

Nhiệt điện (tỷ kWh)

Tổng (tỷ kWh)

Tỷ lệ nhiệt điện/tổng (%)

2005

2047,34

2500,26

81,89

2006

2369,60

2865,73

82,69

2007

2722,93

3281,55

82,98

2008

2790,08

3466,88

80,48

2009

2982,78

3716,65

80,25

2010

3331,93

4207,16

79,20

2011

3833,70

4713,02

81,34

2012

3892,81

4987,55

78,05

2013

4247,01

5431,64

78,19

2014

4400,11

5794,46

75,94

2015

4284,19

5814,57

73,68

2016

4437,07

6133,16

72,35

2017

4754,60

6604,45

71,99

2018

5096,32

7166,13

71,12

2019

5220,15

7503,43

69,57

2020

5330,25

7779,06

68,52

2021

5805,87

8534,25

68,03

2022

5888,80

8848,70

66,55

2023

6265,74

9456,44

66,26

Năm 2024 điện than chiếm 82% công suất đặt của nhiệt điện, còn lại là điện khí và sinh khối. Nhưng tỷ trọng công suất điện than trên tổng các nguồn điện ở Trung Quốc giảm mạnh (từ 73,20% năm 2010 xuống còn 35,52% vào năm 2024) do tốc độ tăng của các loại hình phát điện khác vượt xa tốc độ tăng công suất điện than. Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng công suất điện than trong năm 2024 vẫn đạt 35 GW, khá tương đồng với các năm trong giai đoạn thực hiện Quy hoạch điện 14 (2021-2025). Chỉ tính tăng trưởng công suất điện than hàng năm của Trung Quốc đã hơn toàn bộ công suất điện than hiện có của Việt Nam.

Bảng 2: Công suất đặt của riêng điện than qua các năm:

Năm

Điện than GW

Tổng công suất đặt

Tỷ lệ, %

2010

710

970

73,20

2015

900

1530

58,82

2020

1080

2143

50,40

2021

1109

2380

46,60

2022

1120

2510

44,62

2023

1160

2920

39,73

2024

1195

3350

35,52

Năm 2024, công suất lắp đặt nhiệt điện của Trung Quốc đạt 1.444,45 GW (bao gồm 1.194,98 GW điện than, 143,67 GW điện khí và 45,99 GW điện sinh khối), tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 43,1% tổng công suất lắp đặt của tất cả các nguồn điện.

Quy hoạch điện lần thứ 14 của Trung Quốc đặt ra công suất đặt của điện than năm 2025 phải đạt 1.250 GW. Như vậy, điện than Trung Quốc có thể đã phát triển thấp hơn kịch bản đặt ra một chút, dự tính sẽ đạt gần 1.230 GW vào cuối 2025. Trong khi đó, các nguồn điện năng lượng tái tạo (NLTT) phát triển cao hơn mức Quy hoạch 14 đặt ra. Các nguồn điện gió và mặt trời luôn tăng cao hơn 10% trong khi Quy hoạch chỉ dự tính 9-10%.

Điện than ở Trung Quốc phát triển dựa vào nguồn than tại chỗ của các tỉnh có tiềm năng khai thác khoáng sản này. Tính đến cuối tháng 12 năm 2024, mười tỉnh có công suất lắp đặt điện nhiệt lớn nhất của Trung Quốc là: Quảng Đông, Sơn Đông, Nội Mông, Giang Tô, Sơn Tây, Tân Cương, Hà Nam, Chiết Giang, An Huy và Thiểm Tây. Tổng lượng than khai thác trong nước năm 2024 đạt 4.760 triệu tấn, than nhập khẩu đạt 540 triệu tấn. Với 5,3 tỷ tấn than tiêu thụ trong năm 2024, Trung Quốc không chỉ đứng đầu, mà còn vượt xa phần còn lại của thế giới về tiêu thụ than.

Dự báo điện than trong Quy hoạch điện lần thứ 15:

Trung Quốc cam kết Net Zero vào năm 2060 và sẽ đạt đỉnh phát thải carbon vào năm 2030. Thời điểm đó không còn xa nữa, nên có thể dự tính các nhà máy điện than trong giai đoạn 2026-2030 sẽ chủ yếu là thay thế các nhà máy cũ, với công suất đặt mới sẽ chỉ tăng dưới 1%. Điện khí sẽ được cho phép tăng ở mức cao hơn điện than, có thể ở mức 5%.

Trung Quốc đang thảo luận Quy hoạch điện 15 cho giai đoạn 2026-2030 trong bối cảnh cân bằng nguồn điện có những thay đổi căn bản. Quy hoạch phải chuyển từ “Dự đoán cứng nhắc” sang “Thích ứng đàn hồi”. Quy hoạch điện từ trước đến nay là dự báo nhu cầu phụ tải và tính toán phát triển nguồn, lưới nhằm đáp ứng nhu cầu đó.

Ngày nay, ngành điện Trung Quốc đã trải qua thời gian giá điện âm kéo dài và lặp lại nhiều lần ở Sơn Đông trong năm 2024, khiến cho điện than cũng phải chào giá âm để khỏi phải tắt lò. Đồng thời, các chuyên gia Trung Quốc nghiên cứu rất kỹ sự cố mất điện ở Tây Ban Nha hồi cuối tháng 4/2025. Những biến cố này xảy ra đồng thời với giai đoạn Trung Quốc đang chuyển đổi từ hỗ trợ NLTT và pin lưu trữ sang cơ chế thị trường hoàn toàn, không còn trợ giá và hỗ trợ.

Các chuyên gia đặt ra các cảnh báo cho Quy hoạch điện mới: Không chỉ đáp ứng nhu cầu phụ tải vẫn tăng, mà phải chuyển mạnh từ sử dụng nhiệt điện để đáp ứng phụ tải cơ bản + năng lượng mới (chủ yếu là NLTT) bổ sung sang sử dụng năng lượng mới là chính + sự hỗ trợ linh hoạt của nhiệt điện.

Ngoài thay đổi cơ bản như trên, hệ thống điện còn phải đáp ứng sự thay đổi của thời tiết và khí hậu bất thường cùng những biến động địa chính trị gây ảnh hưởng tới nguồn cung cấp năng lượng.

Tính cảnh báo sớm của Quy hoạch mới phải được nâng lên không chỉ phía bên cung, mà phải cả phía bên cầu. Sự tương tác giữa nguồn, lưới và phụ tải phải được phân tích, dự đoán sớm, sao cho hệ thống điện với tỷ lệ NLTT cao vẫn có khả năng tự cân bằng khi xảy ra sự cố, cũng như khả năng phục hồi nhanh chóng sau sự cố lớn. Hệ thống phải chấp nhận việc xảy ra giá âm (như ở Sơn Đông) là điều không thể tránh khỏi khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhưng cần phải giảm thiểu tình huống giá âm.

Trong bối cảnh đó, dù chưa có dự thảo Quy hoạch điện 15 của Trung Quốc, có thể dự đoán họ sẽ tiếp tục xây thay thế các nhà máy điện than hết hạn sử dụng bằng các nhà máy điện than mới có tính linh hoạt cao hơn. Điện khí sẽ được xây mới với tốc độ cao hơn điện than, vì khả năng linh hoạt của điện khí đã được chứng minh. Những nhà máy nhiệt điện mới sẽ được tiếp tục xây dựng cho đến 2030.

Đạt đỉnh phát thải carbon vào năm 2030, rồi từ đó giảm nhanh chóng để đạt Net Zero vào năm 2060 vẫn là thách thức rất lớn, vì tốc độ giảm dự tính sẽ quá cao, nền kinh tế Trung Quốc sẽ không chịu đựng nổi. Trung Quốc đang tính đến dịch chuyển các ngành công nghiệp về gần với nơi có nguồn điện, đồng thời tính đến sản xuất hydro xanh không chỉ cho ngành hóa chất và giao thông, mà coi là nguồn nhiên liệu dự trữ cho hệ thống phát điện linh hoạt.

Trong bối cảnh đó, việc xây dựng mới các nhà máy điện than sau 2030 của Trung Quốc vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả lời./.

ĐÀO NHẬT ĐÌNH - CHUYÊN GIA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Tài liệu tham khảo:

1. Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc: https://www.stats.gov.cn

2. Cục Năng lượng quốc gia Trung Quốc: https://www.nea.gov.cn/

3. Hội đồng Điện lực Trung Quốc:

- Quy hoạch điện lực Trung Quốc lần thứ 13.

- Quy hoạch điện lực Trung Quốc lần thứ 14.

4 Giải quyết vấn đề quy hoạch điện trong quy hoạch lần thứ 15. https://www.cpnn.com.cn/news/zngc/202506/t20250610_1806079.html

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động