RSS Feed for Tình hình hoạt động đóng/hủy mỏ dầu khí trên thế giới và dự án đầu tiên của Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ tư 11/12/2024 18:46
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Tình hình hoạt động đóng/hủy mỏ dầu khí trên thế giới và dự án đầu tiên của Việt Nam

 - Đóng/hủy giếng dầu khí, thu dọn giàn khoan khá mới đối với Việt Nam, nhưng thế giới đã có từ lâu và khá phức tạp. Để bạn đọc có cái nhìn tổng quát hơn về nội dung này, Tạp chí Năng lượng Việt Nam cập nhật tình hình hoạt động đóng/hủy mỏ dầu khí trên thế giới và một số thông tin liên quan đến dự án hủy mỏ Sông Đốc (ngoài khơi Việt Nam).
Gợi mở một số công việc trước mắt, cần làm ngay cho dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Gợi mở một số công việc trước mắt, cần làm ngay cho dự án điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam

Sau khi BCHTW Đảng thống nhất chủ trương tái khởi động điện hạt nhân, ngày 30/11/2024, Quốc hội đồng ý đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận theo đề xuất của Chính phủ. Tiếp đến, ngày 5/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm thị sát địa điểm xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1... Chuỗi các sự kiện trên đã cho thấy tầm quan trọng, tính cấp thiết của nguồn điện này trong “kỷ nguyên mới của dân tộc”. Để sớm hiện thực hóa chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, trong bài viết dưới đây, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam gợi mở một số nội dung công việc quan trọng trước mắt, cần làm ngay của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan cho dự án điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam.

“Giếng mồ côi” - tác nhân tạo thêm khí thải nhà kính:

Giếng, mỏ dầu khí khi khai thác hết nhiên liệu thường được gọi là “giếng mồ côi” (Orphaned Wells), hay bị bỏ hoang (gọi ngắn OW). Chúng là những giếng dầu, hoặc khí đốt đã được khai thác, không còn chủ sở hữu hợp pháp để chăm sóc giếng. Việc ngừng hoạt động một cách hiệu quả có thể tốn kém, bất kể giếng nông gần bờ, hay xa ngoài khơi khi một thực thể kinh doanh không còn trách nhiệm nữa.

Khí thải mê-tan từ các giếng OW là tác nhân gây ra khí thải nhà kính. Phần lớn rò rỉ này có thể là do không bịt kín đúng cách, hoặc bị rò rỉ các nút. Theo ước tính năm 2020 về các giếng bị bỏ hoang ở Hoa Kỳ, lượng khí thải mê-tan thoát ra từ các giếng bị bỏ hoang gây ra tác động khí nhà kính tương đương với 3 tuần tiêu thụ dầu của Hoa Kỳ mỗi năm.

Các giếng bị bỏ hoang có khả năng gây ô nhiễm đất, không khí, nước, tác động đến hệ sinh thái, động vật hoang dã, vật nuôi và con người. Ví dụ, nhiều giếng ở Hoa Kỳ nằm trên đất nông nghiệp, nếu không được bảo trì có thể gây ô nhiễm đất và nước ngầm có chứa chất gây ô nhiễm độc hại.

Một trong nan y từ giếng bị bỏ hoang là từ khai thác dầu khí bằng phương pháp gây nứt thủy lực (fracking) - là quá trình gây nứt vỡ nền đá bằng chất lỏng chịu áp suất làm cho khí đốt tự nhiên, dầu mỏ và nước muối chảy dễ dàng hơn. Khi quá trình nứt vỡ thủy lực được thực hiện ở gần một giếng mồ côi, nó có thể gây ra các lỗ thủng và nếu không được bịt kín sẽ gây ô nhiễm hệ sinh thái địa phương, đặc biệt là ô nhiễm nước ngầm do bịt kín giếng không đúng cách.

Một giếng được cho là đạt đến “giới hạn kinh tế” khi doanh thu từ sản xuất không trang trải được chi phí vận hành, bao gồm cả thuế. Nếu giới hạn kinh tế tăng lên, thời gian sử dụng hữu ích của giếng sẽ bị rút ngắn và trữ lượng dầu đã được chứng minh sẽ bị mất. Ngược lại, khi giới hạn tài chính được hạ xuống, tuổi thọ của giếng sẽ được kéo dài.

Ở giới hạn kinh tế, một lượng đáng kể dầu không thể thu hồi được thường còn sót lại trong vỉa chứa. Người ta có thể trì hoãn việc khai thác vật chất trong một thời gian dài với hy vọng giá dầu sẽ tăng, hoặc các kỹ thuật thu hồi bổ sung mới sẽ được hoàn thiện. Có hàng nghìn giếng “tạm thời bị bỏ hoang” trên khắp Bắc Mỹ, đang chờ xem thị trường sẽ hành động như thế nào trước khi bị bỏ vĩnh viễn. Tuy nhiên, các điều khoản cho thuê và quy định của chính phủ thường yêu cầu bỏ nhanh chóng; những lo ngại về trách nhiệm pháp lý và thuế cũng có thể tạo điều kiện cho việc từ bỏ giếng.

Về mặt lý thuyết, một giếng bị bỏ hoang có thể được đưa trở lại để khôi phục sản xuất (hoặc chuyển sang dịch vụ ép vỉa để thu hồi bổ sung, hoặc lưu trữ hydrocarbon trong lỗ khoan), nhưng việc đưa giếng hoạt động trở lại thường khó khăn về mặt cơ học và đắt tiền. Theo truyền thống, chất đàn hồi và nút xi măng đã được sử dụng với mức độ thành công khác nhau. Theo thời gian, chúng có thể bị hư hỏng, đặc biệt là trong môi trường ăn mòn.

Tình trạng giếng OW trên thế giới:

Theo Reuters: Hiện không có thống kê chính xác về quy mô giếng bỏ hoang trên thế giới. Theo cuộc điều tra do Reuters thực hiện năm 2020 cho thấy: Ngay cả ở Hoa Kỳ và Canada dữ liệu công khai cũng rất hiếm. Tương tự ở Nga, Ả Rập Xê Út và Trung Quốc - những nước sản xuất dầu khí lớn thứ hai cũng vậy. (Nhưng theo ước tính, có 29 triệu giếng bỏ hoang trên toàn thế giới).

Tại Canada:

Theo Bách khoa Thư mở (EWO): Các giếng mồ côi ở Alberta, Canada là nơi có nhiều giếng dầu, hoặc khí đốt không hoạt động, không có chủ sở hữu. Theo Cơ quan Quản lý Năng lượng Alberta (AER) - chuyên về quản lý việc cấp phép và thực thi liên quan đến toàn bộ vòng đời của các giếng dầu khí dựa trên các yêu cầu của Bộ Môi trường Alberta, thì người được cấp phép khai thác dầu khí phải chịu trách nhiệm đóng cửa, dọn dẹp an toàn và có trách nhiệm đối với các địa điểm giếng dầu khí của họ theo Nguyên tắc Người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) như một nghĩa vụ thanh lý tài sản hợp pháp (ARO). Trách nhiệm của người điều hành đối với các vấn đề cải tạo bề mặt tiếp tục trong 25 năm sau khi cấp giấy chứng nhận cải tạo địa điểm. Ngoài ra, còn có trách nhiệm suốt đời trong trường hợp ô nhiễm.

Sau khi luật môi trường hiện hành có hiệu lực và Hiệp hội Giếng mồ côi (OWA) do ngành công nghiệp lãnh đạo và tài trợ được thành lập vào năm 2002, một số giếng mồ côi đã trở thành trách nhiệm của OWA. Kho lưu trữ của OWA không bao gồm các giếng cũ vốn phức tạp, tốn nhiều thời gian và chi phí để khắc phục. Sau sự suy thoái giá dầu toàn cầu năm 2014 đã tạo ra một “làn sóng” phá sản các giếng, cơ sở và đường ống mồ côi.

Tính đến tháng 3/2023, các công ty dầu khí nợ 268 triệu USD tiền thuế chưa trả; nợ chủ đất “hàng chục triệu đô la tiền thuê đất chưa trả”. Chủ sở hữu ban đầu của những giếng hiện là giếng mồ côi “đã không hoàn thành trách nhiệm của mình đối với công việc ngừng hoạt động và phục hồi tốn kém khi hết vòng đời”. Một số đã bán những giếng này “một cách có chiến lược cho các nhà điều hành phá sản”. Chủ đất phải chịu cả “hậu quả về môi trường lẫn kinh tế” khi có những giếng này trên tài sản của họ. Nguồn tài trợ của OWA bị thiếu hụt ít nhất vài trăm triệu USD. Tổng ước tính để dọn sạch tất cả các địa điểm hiện có lên tới 260 tỷ USD. Việc khắc phục được thanh toán thông qua các khoản cứu trợ của liên bang và tỉnh.

Tại Hoa Kỳ:

Mặc dù các bang, khu vực có các tiêu chí khác nhau về giếng OW, nhưng nhìn chung, một giếng dầu được coi là bị bỏ hoang khi nó đã ngừng sản xuất vĩnh viễn. Tương tự, các giếng mồ côi có thể có các định nghĩa pháp lý khác nhau, nhưng có thể được coi là các giếng mà không thể xác định được chủ sở hữu hợp pháp.

Hàng triệu người Mỹ trên khắp đất nước sống cách một mỏ than, hoặc một giếng dầu khí mồ côi chỉ một dặm (1,6 km). Những địa điểm ô nhiễm di sản này là mối nguy hiểm cho môi trường, gây nguy hiểm cho sức khỏe và sự an toàn của cộng đồng do làm ô nhiễm nước ngầm, phát thải các khí độc hại như metan, làm ô nhiễm cảnh quan bằng các thiết bị rỉ sét, tạo ra sụt lún, gây hại cho động vật hoang dã.

Vì lý do này, một số chương trình của tiểu bang và liên bang đã được khởi xướng để bịt các giếng. Tuy nhiên, nhiều chương trình trong số này đang trong tình trạng quá tải. Ở các tiểu bang như Texas, New Mexico, các chương trình này không có đủ kinh phí, hoặc nhân viên để đánh giá và triển khai đầy đủ các chương trình giảm thiểu. Bắc Dakota đã dành 66 triệu USD trong quỹ cứu trợ đại dịch theo Đạo luật CARES của mình để bịt và khôi phục các giếng bị bỏ hoang.

Theo một cuộc điều tra gần đây của Reuters, một số bang của Hoa Kỳ có số lượng giếng mồ côi và bị bỏ hoang khổng lồ. Còn theo Văn phòng Trách nhiệm Giải trình của Chính phủ, quốc gia này có khoảng 2,1 triệu giếng dầu bị bỏ hoang, gây thiệt hại lên tới 300 tỷ USD.

Một cuộc điều tra chung của Grist và The Texas Observer vào năm 2021 đã nêu bật cách ước tính của chính phủ về các giếng dầu bị bỏ hoang ở Texas và New Mexico. Những người ủng hộ các chương trình như Thỏa thuận Mới Xanh và chính sách giảm thiểu biến đổi khí hậu rộng hơn ở Hoa Kỳ đã ủng hộ việc tài trợ cho các chương trình bịt kín giếng sẽ giải quyết các tài sản bị mắc kẹt và cung cấp Chuyển đổi Công bằng cho những người lao động dầu khí lành nghề.

Đạo luật REGROW (một phần của Đạo luật Đầu tư Cơ sở hạ tầng và Việc làm) bao gồm 4,7 tỷ USD tiền quỹ để bịt kín và bảo trì các giếng dầu bị bỏ hoang. Bộ Nội vụ đã ghi nhận sự tồn tại của 130.000 giếng dầu bị bỏ hoang trên toàn quốc. Một nghiên cứu của EPA ước tính rằng, có tới 2-3 triệu giếng trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ hiện nay.

Giải pháp đóng hủy giếng:

1. Xác định giếng OW:

Công ty giám sát khí thải ABB (Thụy Sỹ) hợp tác với nhà cung cấp thiết bị công nghiệp Winn-Marion đã phát triển một phương pháp tiếp cận rộng rãi để xác định, giám sát các giếng mồ côi dựa trên thiết bị phát hiện rò rỉ khí và dòng chảy của ABB. Nó từng được sử dụng rộng rãi trong hàng nghìn nhà máy công nghiệp trên toàn cầu. Việc xác định vị trí các giếng này chỉ là một nửa của công việc. Chi phí trung bình để bịt giếng là 75.000 USD, nhưng có khi lên tới 1 triệu USD.

Theo ABB, các máy phân tích này có thể phát hiện khí thải mêtan thấp tới 1 phần tỷ (ppb), với lưu lượng thấp tới 180 kg/giờ. Các phép đo được theo dõi và ghi lại trên máy tính hệ thống. Phương pháp trên dựa trên công nghệ SensyMaster tiết kiệm chi phí của ABB, cung cấp các phép đo lưu lượng khí chính xác và động ở áp suất thấp, cũng như trung bình.

2. Thu hồi và tái sử dụng:

Một số giếng bị bỏ hoang sau đó đã được bịt lại. Tuy nhiên, chi phí có thể lên tới hàng triệu đô la. Trong quá trình này, đường ống được lấy ra khỏi giếng và các phần của giếng được lấp đầy bằng xi măng, cách ly đường dẫn dòng chảy giữa các vùng khí và nước với nhau, cũng như với bề mặt, đầu giếng được cắt bỏ, một nắp được hàn tại chỗ, sau đó phần gốc được chôn khi đường viền đất được phục hồi.

3. Bịt giếng:

Phương pháp bịt giếng chính là dùng chất đàn hồi và nút xi măng. Các chiến dịch do chính phủ tiến hành để bịt giếng rất tốn kém, nhưng thường được hỗ trợ bằng thuế dầu khí, trái phiếu, hoặc các khoản phí khác áp dụng cho sản xuất. Các tổ chức như Well Done Foundation cũng thực hiện các dự án gắn kết tốt và phát triển các chương trình cùng với các cơ quan chính phủ.

Phát hành trái phiếu bị kín giếng:

Các công ty dầu khí trên đất công ở Hoa Kỳ phải đăng báo việc phát hành trái phiếu để đảm bảo tài chính trang trải chi phí bịt giếng nếu họ phá sản, hoặc không thể tự mình bịt giếng. Yêu cầu đảm bảo tài chính hiện tại đã được áp dụng trong 60 năm, chi phí cho mỗi giếng là 10.000 USD. Số tiền này thấp hơn đáng kể so với chi phí bịt một giếng, lên tới 400.000 USD. Vì vậy, nhiều hợp đồng thuê dầu khí liên bang có một khoản thế chấp không đủ trang trải chi phí dọn sạch.

Các quy định mới liên quan đến Đạo luật Việc làm và Đầu tư Cơ sở hạ tầng sẽ tăng yêu cầu đảm bảo tài chính lên tối thiểu 150.000 USD/giếng. Điều này sẽ giúp đảm bảo rằng, các công ty dầu khí có đủ nguồn tài chính để bịt các giếng nếu họ không thể tự làm được.

4. Bơm CO2:

Các giếng chưa sử dụng, đặc biệt là giếng khai thác khí đốt tự nhiên có thể được sử dụng để thu giữ, hoặc lưu trữ carbon. Tuy nhiên, nếu không được bịt kín đúng cách, hoặc địa điểm lưu trữ không được bịt kín đủ, thì khả năng rò rỉ là không tránh khỏi.

5. Sản xuất địa nhiệt:

Một nghiên cứu năm 2014 tại Trung Quốc đã đánh giá việc sử dụng các giếng bị bỏ hoang để sản xuất điện địa nhiệt. Một nghiên cứu tương tự đã được thực hiện vào năm 2019 đối với các giếng khí đốt tự nhiên.

khái niệm hoạt động thăm dò, khai thác thương mại đối với các mỏ dầu khí ngoài khơi hoàn toàn khác với mỏ than, mỏ khoáng sản trên bờ. Do đó, thế giới có luật Đất đai thềm lục địa ngoài (OCSLA), sau khi chấm dứt vòng đời dự án khai thác, chủ đầu tư phải hủy mỏ (vĩnh viễn).

Dự án hủy mỏ đầu tiên tại Việt Nam:

Theo nhìn nhận của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam: Ở nước ta, cũng như trong khu vực Đông Nam Á, là đầu tư, phát triển khai thác và thiết kế tổng thể cho các mỏ dầu khí ngoài khơi luôn theo mô hình truyền thống đối với vùng biển nước nông. Tại vùng biển thuộc tiểu vùng địa lý phía Đông Nam châu Á và Việt Nam có đặc tính là sản lượng khai thác không chỉ có dầu, mà còn có khí, kéo theo nhiều chi phí đầu tư, khai thác và hủy mỏ.

Do vậy, mô hình khai thác là 1 giàn xử lý trung tâm CPP (hoặc giàn đầu giếng WHP) để tách, xử lý khí. Giàn kết nối với các giếng khoan khai thác và kho chứa nổi (FPSO, hoặc FSO) để chứa dầu, hoặc condensate. Còn khí tự nhiên, sau khi được xử lý trên giàn CPP/WHP, hoặc trên kho chứa nổi (FPSO) sẽ được vận chuyển qua hệ thống ống ngầm về bờ.

Theo đó, mô hình hoạt động ở mỏ Sông Đốc, cũng như một số mỏ khác của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) sau khi khai thác hết dầu khí, nhà đầu tư/điều hành sẽ hủy mỏ (vĩnh viễn). Phạm vi công việc hủy mỏ bao gồm:

1. Development wells plugs - Đóng hủy giếng khai thác (tránh rò rỉ tràn dầu).

2. WHP abandonment - Tháo dỡ di đời giàn (để cô lập, hủy vĩnh viễn hoạt động khai thác mỏ).

3. FPSO/FSO Decommisioning - Ngừng hoạt động, có thể tái sử dụng.

Tình hình hoạt động đóng/hủy mỏ dầu khí trên thế giới và dự án đầu tiên của Việt Nam
PV Drilling và PTSC-POS, PVEP-POC ký kết hợp đồng gói thầu cung cấp dịch vụ thiết kế và thi công hạng mục đóng hủy giếng và tháo dỡ di dời giàn Sông Đốc (ngày 26/11/2024, tại Hà Nội).

Sông Đốc là dự án hủy mỏ đầu tiên tại Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng và mang tính đột phá đối với ngành dầu khí nước nhà. Đây là dự án đặc biệt đã kéo dài được hơn 10 năm, kể từ khi PVN nhận lại khai thác tận thu để đem lại giá trị gia tăng về tài nguyên, cũng như đóng góp ngân sách nhà nước. Dự án áp dụng chiến lược đấu thầu mới, lần đầu tiên triển khai theo hình thức trọn gói, tích hợp các gói công việc vào chung một quy trình.

Trong dự án đóng hủy giếng và tháo dỡ di dời giàn Sông Đốc, PV Drilling là thành viên đứng đầu Liên danh đảm nhận gói số 1 (đóng hủy giếng), PTSC-POS là thành viên Liên danh đảm nhận gói số 2 (tháo dỡ di dời giàn Sông Đốc) trên cơ sở đánh giá các tiêu chí minh bạch về kỹ thuật, thương mại và kinh nghiệm của các đơn vị.

Việc tiến hành hủy mỏ và di dời các thiết bị, công trình khai thác chứng tỏ tính chuyên nghiệp và nghiêm túc của PVN, cũng như các đơn vị thành viên trong suốt quá trình triển khai hoạt động thăm dò, khai thác cho đến khi dừng mỏ nhằm đảm bảo các yếu tố về an toàn, môi trường./.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM


Link tham khảo:

1. https://en.wikipedia.org/wiki/Orphan_wells

2. https://www.sciline.org/environment-energy/abandoned-oil-gas-wells/#:~:text=Researchers%20estimate%20that%20there%20are,manage%20leakage%20or%20pollution%20risks.

3. https://www.azocleantech.com/article.aspx?ArticleID=1708

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động