Tác động ‘hai chiều’ của giá dầu tới kinh tế VN - Kỳ 2: Tích cực và tiêu cực
06:41 | 30/10/2019
Tác động ‘hai chiều’ của giá dầu tới kinh tế VN - Kỳ 1: Tổng quan diễn biến
KỲ 2: MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ DẦU TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Một số đánh giá tác động hai chiều của biến động giá dầu thô trên thị trường thế giới đến nền kinh tế Việt Nam và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước:
1/ Tác động tích cực:
Thứ nhất: Giá dầu giảm tác động tích cực đối với tiêu dùng của người dân và hoạt động của DN. Nhờ giá dầu giảm, tạo điều kiện cho số đông người dân có điều kiện tiết kiệm được chi phí cho giao thông, từ đó tăng tiêu dùng cho nền kinh tế. Về phía DN các hộ gia đình có sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ, kể cả đánh bắt thủy hải sản, nuôi trồng thủy sản, các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ sử dụng nhiều xăng, dầu, khi giá dầu giảm giúp giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận từ đó giúp tăng khả năng chi tiêu, tái đầu tư của DN của hộ sản xuất, kinh doanh, của ngư dân, chủ trang trại… Nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng và khả năng trả nợ đúng hạn cũng cao hơn. Theo đó, mục tiêu tăng trưởng tín dụng, mục tiêu điều hành lãi suất và tỷ giá của NHNN cũng thuận lợi hơn theo các Nghị quyết của Chính phủ.
Thứ hai: Hiệu quả kinh doanh của số đông doanh nghiệp được cải thiện góp phần thu nội địa từ thuế tăng mạnh, đóng góp tích cực cho NSNN. Điều hành chính sách tài khóa thuận lợi hơn cũng tạo điều kiện cho điều hành chính sách tiền tệ thuận lợi, nhất là trong phát hành trái phiếu chính phủ, cân đối ngoại tệ cho các mục tiêu quốc gia…
Thứ ba: Lạm phát được kiểm soát thấp, kinh tế vĩ mô ổn định hấp dẫn hoạt động đầu tư. Cùng với chi phí lao động thấp, triển vọng thị trường nội địa sáng sủa và tăng cường ký kết FTA, giá dầu giảm làm tăng tính hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút vốn FDI, góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Đây là cơ hội cho Việt Nam trong trung và dài hạn trong việc thu hút vốn, công nghệ của nước ngoài, đồng thời đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Như vậy, rõ ràng là điều hành chính sách tiền tệ thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát cũng thuận lợi hơn trong điều kiện giá dầu giảm và ở mức thấp, đồng thời giá dầu tăng cũng tác động rất rõ rệt lên CPI.
Thứ tư: Ổn định lãi suất và tỷ giá. Giá dầu giảm và dao động quanh mức thấp, tác động đến các chủ thể nói trên của nền kinh tế, CPI ở mức thấp, tạo tiền đề cho ổn định và giảm nhẹ lãi suất. Bên cạnh đó, USD giảm giá, góp phần ổn định tỷ giá VND/USD. Diễn biến đó tạo tâm lý người dân an tâm gửi nội tệ vào ngân hàng và các DN, hộ gia đình an tâm vay vốn đầu tư, tiêu dùng. Giá dầu thấp và giảm mạnh, việc chi ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu, gas và các sản phẩm khác từ hóa dầu cũng giảm, tạo cơ hội tăng dự trữ ngoại tệ của NHNN, của quốc gia.
2/ Tác động tiêu cực:
Thứ nhất: Làm giảm nguồn thu NSNN từ dầu thô. Tổng thu từ dầu thô năm 2014 là 107.000 tỷ đồng đã giảm còn 66.000 tỷ đồng trong 2015, chỉ bằng khoảng 67% so với dự toán; chỉ bằng 54,3% năm 2013 (115 nghìn tỷ đồng) và 55% năm 2012 (113 nghìn tỷ đồng). Tỷ trọng trung bình thu từ dầu thô trong tổng thu NSNN mặc dù giảm từ mức 25% giai đoạn 2000 - 2008 xuống còn khoảng 12% giai đoạn 2009 - 2015, song thu từ dầu thô vẫn đóng vai trò quan trọng trong NSNN. Khoản thu từ dầu thô được thể hiện từ hai khoản thuế thu từ khu vực DN FDI là thuế thu nhập DN và thuế tài nguyên. Năm 2014, khu vực FDI đóng góp 27,5% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) thì trong đó riêng thu từ dầu thô chiếm 46% tổng thu từ khu vực này. Trong 107.000 tỷ đồng thu từ dầu thô, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) chiếm 72,2%, còn thuế tài nguyên chiếm 27,8%. Thuế TNDN là sắc thuế quan trọng nhất với tỷ trọng khoảng 26% tổng thu NSNN, thuế TNDN từ dầu thô chiếm 35% tổng số thu thuế TNDN và 55,9% tổng số thu thuế TNDN từ khu vực FDI.
Thu NSNN từ dầu thô đã giảm từ mức bình quân 5,2% GDP giai đoạn 2006 - 2010 xuống còn dưới 1% năm 2015, dự toán 2016 là 0,9% GDP. Giai đoạn 2006 - 2010. Do biến động của giá xăng dầu (giá dầu thô giảm từ 60 USD/thùng khi xây dựng dự toán năm 2016 xuống mức bình quân đạt 41 USD/thùng) đã làm giảm thu của Tổng cục Hải quan từ dầu thô xuất khẩu khoảng 1.800 tỷ đồng.
Năm 2017, tổng thu NSNN tính đến hết 31/12/2017, đạt 1.283,2 nghìn tỷ đồng, vượt 71 nghìn tỷ đồng, vượt 5,9% so với dự toán, tăng 43,7 nghìn tỷ đồng so với báo cáo Quốc hội, đạt mức động viên 25,6% so với GDP. Trong đó, thu từ dầu thô đạt 43,5 nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 13,7% và thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 183,8 nghìn tỷ đồng, vượt 2,1% dự toán. Năm 2017, xuất khẩu dầu thô đạt hơn 2,9 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2016. Chỉ số giá xuất khẩu dầu thô cũng tăng tới 26,31%, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất khẩu lên mức kỷ lục gần 214 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm 2016.
Trước đây thu từ dầu thô trong ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng khá lớn. Vào những năm 2006 - 2010, bình quân thu từ dầu thô chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách Nhà nước, nên khi có biến động về giá dầu sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến số thu ngân sách. Nhưng thực tế, đến nay tỷ trọng thu dầu thô trong ngân sách Nhà nước giảm xuống còn 4% trong năm 2018 và dự kiến trong năm 2019 chỉ còn chiếm 3,2%. Như vậy, có thể thấy ảnh hưởng từ dầu thô đến ngân sách Nhà nước là không đáng kể.
Năm 2019, Chính phủ đã quyết định trình Quốc hội dự toán giá dầu ở mức 65 USD/thùng, tăng 15 USD/thùng so với năm 2017. Với kịch bản giá dầu mà PVN đang xây dựng là 65 USD/thùng giá kế hoạch, trong trường hợp giá dầu không đạt được như vậy thì PVN vẫn phấn đấu đạt được kế hoạch sản lượng năm 2019, nhưng sản lượng của các năm tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng bởi liên quan đến đầu tư bổ sung của năm 2019. Song hiện nay, tại thời điểm ngày 11/6/2019, giá dầu thô giảm và chỉ còn dao động quanh mức 62 USD/thùng, thấp hơn mức phê duyệt của Chính phủ và kế hoạch của PVN. Nếu tình hình này kéo dài và nếu giá dầu thô giảm xuống quanh mức 58 - 60 USD/thùng, thì nguồn thu và khả năng đóng góp cho NSNN của PVN sẽ bị sụt giảm so với kế hoạch và ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án năng lượng quốc gia.
Tuy nhiên, những năm gần đây thu từ dầu thô trong tổng thu ngân sách đã thấp đi nhiều, phải tìm nguồn khác bù đắp cho thu ngân sách, nhưng phải là những nguồn thu bền vững - tức là phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì mới có cơ sở để tăng thu ngân sách. Số thu từ dầu thô hiện nay không lớn và được bù đắp từ thu nội địa; trong đó gồm thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực doanh nghiệp FDI, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tính toán là nếu giá dầu trong năm 2019 giảm về 50 USD/thùng, thấp hơn dự toán 15 USD/thùng thì ngân sách bị hụt khoảng 10 nghìn đến 12 nghìn tỷ đồng.
Theo Báo cáo của Tổng cục Thuế, đến hết tháng 5/2019, thu ngân sách của toàn ngành ước đạt 508.608 tỷ đồng, đạt 43,5% so với dự toán pháp lệnh, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2018. Thu từ dầu thô ước đạt 23.371 tỷ đồng, bằng 52,4% so với dự toán, bằng 97,5% so với cùng kỳ năm 2018, trên cơ sở giá dầu thô bình quân 5 tháng ước đạt 66,9 USD/thùng, bằng 103% so với giá dự toán, bằng 95,6% cùng kỳ năm 2018 và sản lượng ước đạt 4,9 triệu tấn, bằng 47% dự toán, bằng 98% cùng kỳ.
Thứ hai: Tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua ảnh hưởng của nhóm cổ phiếu doanh nghiệp ngành dầu khí. Doanh thu của hầu hết các DN dầu khí niêm yết trong năm 2015 đều giảm mạnh; tổng doanh thu các DN này giảm 16,5% và lợi nhuận sau thuế giảm 15,4% so với cùng kỳ và đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá của nhóm cổ phiếu dầu khí.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, trong năm 2016, nhờ những tín hiệu lạc quan về một thỏa thuận cắt giảm sản lượng của OPEC, giá dầu đã phục hồi hơn 50%, có thời điểm tăng lên 54 USD/thùng. Nhóm cổ phiếu dầu khí nhờ vậy cũng bật tăng trở lại một cách rất ấn tượng. PV GAS có mức tăng gần 100% còn PVT, PVS, PVX, PVD đều tăng giá hàng chục phần trăm.
Năm 2017, giá dầu vẫn ở mức thấp trong những tháng đầu năm và phục hồi từ tháng 9/2017 cho đến cuối tháng 11/2017, không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các công ty thượng nguồn của ngành liên quan đến khoan và dịch vụ khoan dầu khí, mà còn có cả một số DN trong ngành dầu khí, giá cổ phiếu vẫn ở mức thấp, mặc dù có tăng nhẹ so với năm 2016.
Năm 2018, tiếp tục là năm khó khăn của ngành dầu khí khi giá dầu biến động hai chiều, khối lượng công việc hạn chế và giá dịch vụ suy giảm. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các đơn vị thành viên giữ vững nhịp độ sản xuất kinh doanh, hầu hết các chỉ tiêu sản xuất của Tập đoàn đều hoàn thành vượt mức kế hoạch đã đề ra từ 3 - 19%, trong đó sản lượng khai thác dầu khí đạt 23,98 triệu tấn quy dầu, vượt 5% kế hoạch năm.
Bên cạnh đó, các chỉ tiêu tài chính cũng đều hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra và cao hơn cùng kỳ năm 2017. Tổng doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 626.800 tỷ đồng, vượt 18% kế hoạch năm và tăng 26% so với năm 2017.
Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) hoàn thành vượt mức kế hoạch sản lượng năm 2018 từ 4-52%. PV GAS đã sản xuất và cung cấp gần 9,7 tỷ m3 khí, trên 1,7 triệu tấn LPG, trên 95 ngàn tấn condensate. Các chỉ tiêu tài chính đạt kết quả ấn tượng với tổng doanh thu 77.127 tỷ đồng, đạt 138% kế hoạch năm; lợi nhuận trước thuế 14.540 tỷ đồng, đạt 181% kế hoạch năm; lợi nhuận sau thuế 11.709 tỷ đồng, đạt 182% kế hoạch năm; nộp ngân sách Nhà nước 5.401 tỷ đồng, đạt 185% kế hoạch năm.
Tổng công ty CP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC), giá dầu sụt giảm sâu và liên tục duy trì ở mức thấp đã gây ảnh hưởng nặng nề tới doanh nghiệp. Dù vậy, PTSC vẫn thông báo vượt mức các chỉ tiêu, kế hoạch trong năm 2018 với doanh thu hợp nhất là 15.000 tỷ đồng, đạt 115% kế hoạch năm; lợi nhuận hợp nhất trước thuế ghi nhận 960 tỷ đồng, vượt 37% kế hoạch năm.
Tổng công ty CP Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (PVD) tổng kết năm 2018 với doanh thu ước đạt 5.715 tỷ đồng, tương đương 191% kế hoạch đầu năm; dự kiến hòa vốn nếu thu được 80% tổng nợ quá hạn từ PVEP. Trong năm 2018, PVD đối mặt với bối cảnh cạnh tranh của thị trường cung cấp giàn khoan cũng như các dịch vụ liên quan ngày càng gay gắt, mức giá cho thuê giàn vẫn thấp dưới mức chi phí và dẫn đến PVD phải chịu lỗ để duy trì hoạt động.
Ngoài ra, công tác phát triển dịch vụ ra nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh cao, các rào cản về bảo hộ mậu dịch, thuế quan…
Tổng công ty CP Vận tải Dầu khí (PVT) trong năm 2018 có doanh thu hợp nhất đạt 7.750 tỷ đồng và lợi nhuận đạt 910 tỷ đồng. Đây là kết quả cao nhất trong 16 năm phát triển của doanh nghiệp.
Tổng công ty Dung dịch khoan và Hóa phẩm Dầu khí (PVC) có doanh thu hợp nhất năm 2018 đạt 2.378 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 5,9 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước đạt 102 tỷ đồng, đạt 118% kế hoạch. Có được kết quả trên là nhờ Tổng công ty đã tập trung triển khai công tác tái cấu trúc, phát triển các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ ít bị tác động ảnh hưởng của giá dầu thô và các dịch vụ trên bờ; hoàn thiện hệ dung dịch riêng để gia tăng giá trị thương mại...
Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (mã chứng khoán: DPM), chuyên sản xuất kinh doanh phân bón Phú Mỹ, đầu tháng 6/2019 đã lọt vào danh sách 500 doanh nghiệp niêm yết tốt nhất trên thị trường chứng khoán do Forbes bình chọn. Đây là lần thứ 5 doanh nghiệp được vinh danh và cũng là đơn vị duy nhất trong ngành phân bón nằm trong bảng xếp hạng này.
Thứ ba: Hoạt động thu hút đầu tư bị ảnh hưởng, nhất là ngành dầu khí và các ngành liên quan, nhiều dự án đầu tư đã và đang giãn tiến độ, dừng triển khai do giá dầu xuống thấp. Nhiều dự án lọc hóa dầu đang triển khai chậm cũng như phải hoãn, giản tiến độ; thậm chí có dự án đứng trước nguy cơ bị thu hồi giấy phép. Tình hình đó ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp có liên quan đến dầu khí trong việc trả nợ vốn vay NHTM triển khai thi công, nhận thầu, thực hiện dự án,… cũng như thực hiện các hợp đồng tín dụng đã ký kết.
Ví dụ như tại thời điểm giữa năm 2017, việc thu xếp vốn cho dự án Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới, cùng với việc thay đổi chính sách tài trợ vốn đối với các dự án nhiệt điện than của Khối các nước OECD từ tháng 1/2017.
Thứ tư: Thúc đẩy hoạt động buôn lậu xăng, dầu. Giá xăng, dầu trên thị trường thế giới thường xuyên biến động tăng hay giảm, giá bán lẻ xăng, dầu thị trường trong nước không điều chỉnh kịp thời, có những lúc cao hơn hay thấp hơn giá thị trường thế giới, kích thích các hoạt động buôn lậu trên biển, qua biên giới. Khi giá xăng, dầu trong nước thấp hơn giá các nước láng giềng, các phương tiện của các nước láng giềng quá cảnh mua xăng, dầu tại Việt Nam, hay các hoạt động xuất lậu qua nhiều con đường khác nhau. Tương tự, khi giá xăng, dầu trong nước cao hơn giá thị trường thế giới, các hoạt động nhập khẩu lậu cũng phát triển, làm thất thu NSNN cũng như phát sinh hàng loạt tiêu cực khác, ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia. Tình hình đó cũng ảnh hưởng lớn đến kiểm soát ngoại tệ, đến các giao dịch ngầm, giao dịch lậu về ngoại tệ.
Thứ năm: Tác động đến lượng khách du lịch đến từ các quốc gia xuất khẩu lớn dầu mỏ và khí đốt. Trường hợp này thấy rõ nhất là đối với Nga và các quốc gia khác thuộc Liên bang Xô Viết (trước đây). Những năm giá dầu mỏ và khí đốt tăng cao, nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng, khách du lịch từ các nước đó đến Việt Nam tăng cao, đặc biệt là khu vực Mũi Né của tỉnh Bình Thuận, Đà Nẵng, Nha Trang… kéo theo nhiều dự án phát triển du lịch, khách sạn, nhà hàng, Resort,… dịch vụ hàng không cũng phát triển, nhiều chuyến bay thuê bao đưa thẳng khách đến Việt Nam. Nhưng đến khi giá dầu mỏ và khí đốt giảm, nền kinh tế bị cô lập nhiều thứ, đồng Rúp mất giá, lượng khách du lịch giảm, các dự án khách sạn, khu Resort,… bị đình trệ, gây ra nợ xấu đối với các NHTM và ảnh hưởng thu hút khách du lịch nước ngoài đến lĩnh vực này của khu vực này.
Gần đây giá dầu mỏ và khí đốt được phục hồi nhẹ, lạm phát dừng lại, khách du lịch từ Nga và các nước nói trên dần được phục hồi, nhưng chưa như kỳ vọng và nếu giá dầu thô Brent tăng lên mức trên 65 USD/thùng, giá dầu thô ngọt nhẹ tăng lên trên 60 USD/thùng, thì tình hình lượng khách du lịch của các nước đó đến Việt Nam nói chung, miền Trung nói riêng dự báo chắc chắn còn tăng cao hơn.
Nguồn thu ngoại tệ từ khách du lịch đến từ các quốc gia bị ảnh hưởng lớn về giá dầu không như kỳ vọng cũng tác động đến cán cân thanh toán quốc tế, đến nguồn thu của các doanh nghiệp hướng đến dòng khách này.
Thứ sáu: Tác động lớn đến ngành cao su. Do giá dầu thô trên thị trường thế giới không tăng và dao động quanh mức thấp, làm cho giá cao su tự nhiên không tăng, giá xuất khẩu mủ cao su tự nhiên cũng không tăng, tác động lớn đến các DN, hộ gia đình trồng cao su, thu mua và chế biến mủ cao su. Liên quan đến việc làm và thu nhập của số đông hộ gia đình, người dân ở các tỉnh miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên và miền Trung.
Cao su là ngành đem lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng từ hoạt động xuất khẩu; đồng thời đây cũng là lĩnh vực đầu tư vốn tín dụng quan trọng của các NHTM, ở cả khâu trồng và chăm sóc, thu mua, chế biến, nhất là các tỉnh có diện tích cao su tự nhiên, từ đó có những ảnh hưởng nhất định đến điều hành chính sách tiền tệ.
Thứ bảy: Tác động đến các ngành khác liên quan đến dầu mỏ. Hàng loạt dự án đầu tư của các doanh nghiệp liên quan trực tiếp đến dầu mỏ, như tơ sợi nhân tạo, nhựa, phân bón hóa học… bị ảnh hưởng lớn. Điển hình là dự án xơ sợi Đình Vũ (Hải Phòng) có lý do khách quan là bởi biến động lớn của giá dầu. Bởi vì ngành xơ sợi gắn với thị trường dầu mỏ, ở thời điểm khi xây dựng và phê duyệt dự án, giá dầu thô thị trường thế giới đang ở đỉnh cao, sau đó xuống chỉ còn 50 USD/thùng, có thời điểm xuống dưới 40 USD/thùng nên dự án lỗ. Tuy nhiên, cần phải thực sự thẳng thắn thừa nhận rằng, có nguyên nhân chủ quan khiến dự án nhanh chóng bị thua lỗ đó là do hạn chế về nhận thức, sai lầm trong dự báo thị trường dầu thô và thị trường xơ sợi thế giới, yếu kém, tiêu cực trong quản lý triển khai dự án.
Các dự án đầu tư liên quan trực tiếp đến dầu thô có số vốn lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng bị đình trệ, bị thua lỗ, gây ra nợ xấu đối với các NHTM, ảnh hưởng lớn đến điều hành chính sách tiền tệ.
(Kỳ tới: Dự báo cung cầu xăng, dầu của Việt Nam và một số khuyến nghị)
TS. LƯƠNG VĂN HẢI - TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI