RSS Feed for Vướng mắc trong giải quyết đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi và giải pháp tháo gỡ | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ năm 25/04/2024 01:13
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Vướng mắc trong giải quyết đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi và giải pháp tháo gỡ

 - Ngày 4/10/2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về “một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết các đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi và đề xuất giải pháp tháo gỡ”. Tạp chí Năng lượng Việt Nam xin dẫn lại nguyên văn nội dung văn bản này gửi tới bạn đọc.
EVN kiến nghị giao các tập đoàn nhà nước ‘đầu tư thí điểm’ điện gió ngoài khơi EVN kiến nghị giao các tập đoàn nhà nước ‘đầu tư thí điểm’ điện gió ngoài khơi

Trong báo cáo gửi Ban Chỉ đạo Quốc gia về Phát triển Điện lực mới đây, Tập đoàn Điện lưc̣ Việt Nam (EVN) đã kiến nghị cơ chế giao các tập đoàn nhà nước đầu tư thí điểm các dự án nhà máy điện gió ngoài khơi (vì đây là các khu vực liên quan an ninh quốc gia, công nghệ mới, thi công phức tạp). Trên cơ sở kinh nghiệm đó, Chính phủ chỉ đạo xây dựng cơ chế để lựa chọn chủ đầu tư theo hình thức xã hội hoá.

Kiến nghị chính sách phát triển nguồn điện khí, điện gió, mặt trời tại Việt Nam Kiến nghị chính sách phát triển nguồn điện khí, điện gió, mặt trời tại Việt Nam

Từ kết quả Hội thảo quốc tế “Chính sách cho phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời và điện khí tại Việt Nam” do Cục Điện lực và Năng lượng Tái tạo - Bộ Công Thương, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổ chức hồi cuối tháng 8/2022 tại TP. HCM, Ban tổ chức Hội thảo vừa có Văn bản báo cáo tổng hợp kiến nghị tới Thủ tướng Chính phủ, Ban Kinh tế Trung ương về cơ chế, chính sách phát triển các nguồn điện này trong thời gian sắp tới.

Điện gió ngoài khơi: Tiềm năng, thách thức và kế hoạch hành động của Việt Nam Điện gió ngoài khơi: Tiềm năng, thách thức và kế hoạch hành động của Việt Nam

Việt Nam đã cam kết với quốc tế giảm phát thải khí carbonic về không (Net-zero) vào năm 2050. Các nguồn điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài khơi dự tính sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tồng nguồn phát điện vào năm 2045 (theo Dự thảo Quy hoạch điện VIII). Phát triển điện gió ngoài khơi, ngoài việc khai thác tiềm năng to lớn về năng lượng còn đảm bảo thực hiện tầm nhìn phát triển kinh tế biển... Phân tích của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam.


Thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận được các đề xuất đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển (sau đây viết tắt là đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi) để tổ chức thẩm định, chấp thuận về vị trí, ranh giới, diện tích, tọa độ, độ sâu, thời gian sử dụng khu vực biển để tổ chức, cá nhân thực hiện khảo sát điện gió ngoài khơi theo quy định tại khoản 2 Điều 8 và khoản 4 Điều 9 Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10 tháng 2 năm 2021 của Chính phủ quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.

Sau khi nhận được các đề xuất sát điện gió ngoài khơi, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa phương liên quan; tổ chức các cuộc họp tham vấn, trao đổi với các bên liên quan, gồm các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học và một số nhà đầu tư trong nước và quốc tế trong lĩnh vực điện gió.

Thông qua đó, khẳng định còn có những vướng mắc liên quan đến quy định của pháp luật nên chưa thể giải quyết và ban hành văn bản chấp thuận theo quy định tại Nghị định số 11/2021/NĐ-CP.

Đồng thời, đã đề xuất các giải pháp tháo gỡ, chủ yếu trong quá trình thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 11/2021/NĐ-CP theo Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong năm 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường kính báo cáo Thủ tướng Chính phủ với nội dung cụ thể như sau:

I. Về các đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi:

Việc phát triển điện gió ngoài khơi là phù hợp với định hướng phát triển bền vững kinh tế biển theo nội dung Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và cam kết của Việt Nam tại COP26 đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ XXI. Do vậy, nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước rất quan tâm đến việc phát triển các dự án điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi.

Tính đến ngày 31/8/2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được 55 đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi, trong đó:

Có 6 đề xuất của nhà đầu tư nước ngoài (10,9%).

Có 13 đề xuất của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (23,6%).

Có 36 đề xuất của nhà đầu tư trong nước (65,5%).

Trong đó có 1 đề xuất đo gió đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chấp thuận (do nhà đầu tư trong nước đề xuất, diện tích 36 m2 để lắp đặt trạm Lidar gió trên biển phục vụ lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Nhà máy điện gió ngoài khơi Bến Tre. Chấp thuận không bao gồm nội dung đo đạc, khảo sát độ sâu đáy biển, đặc điểm đáy biển, các tầng địa học, ranh giới các tầng đất, đá, các đặc tính kỹ thuật tầng đáy biển, các thông số hải dương...) và 19 đề xuất đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên biển để lập các dự án điện gió ngoài khơi đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định số 11/2021/NĐ-CP và các quy định khác có liên quan. Tổng công suất đề xuất là trên 100 GW; đề xuất có công suất nhỏ nhất là 0,5 GW; đề xuất có công suất lớn nhất là 6,0 GW.

Tổng diện tích đề xuất khảo sát trên biển xấp xỉ 30.000 km2; một số đề xuất có diện tích khảo sát lên tới trên 3.000 km2 (dự án điện gió ngoài khơi tỉnh Thái Bình do Công ty TNHH Xuân Thiện Ninh Bình đề xuất, công suất dự kiến là 5.0 GW, diện tích khảo sát là 3.162 km2; dự án điện gió ngoài khơi Bắc Thanh Hóa do Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư Xây dựng Cường Thịnh Thi đề xuất, công suất dự kiến là 5.0 GW, diện tích khảo sát là 3.719 km2).

Ngoài ra, theo thống kê chưa đầy đủ từ các địa phương có biển, có khoảng 40 đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi (100% là của nhà đầu tư trong nước, có phạm vi vùng biển từ 6 hải lý trở vào) thuộc thẩm quyền thẩm định, chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

II. Một số khó khăn, vướng mắc:

Trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học và một số nhà đầu tư trong nước và quốc tế trong lĩnh vực điện gió tại các cuộc họp tham vấn; ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, chẳng hạn như:

(i). Bộ Quốc phòng: Đề nghị cần điều chỉnh quy mô, diện tích khi khu vực khảo sát chồng lấn với khu vực dành cho các hoạt động quốc phòng hoặc luồng hàng hải. Ngoài ra, cần lưu ý đến các vấn đề về an toàn hàng hải, quản lý người phương tiện nước ngoài trong vùng biển nước CHXHCN Việt Nam.

(ii). Bộ Công an: Theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Nghị định số 11/2021/NĐ-CP thì các tổ chức, cá nhân nước ngoài chưa được phép thực hiện hoạt động đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên vùng biển Việt Nam; đồng thời nêu Nghị định số 11/2021/NĐ-CP chưa quy định rõ yêu cầu hồ sơ, trình tự, thủ tục ban hành văn bản chấp thuận, chưa có quy định về việc quản lý hoạt động khảo sát gió, địa chất, địa hình trên biển và các ý kiến liên quan khác (Bộ Công an đã có báo cáo chi tiết gửi Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 622/BC-BCA- ANKT ngày 25 tháng 4 năm 2022).

(iii). Bộ Ngoại giao: Hoạt động đo gió, khảo sát địa chất địa hình trên biển cần chấp hành nghiêm Nghị định số 77/2017/NĐ-CP ngày 03/7/2017 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo vệ an ninh, trật tự tại cửa khẩu cảng và Nghị định số 71/2015/NĐ-CP ngày 03/9/2015 của Chính phủ về quản lý hoạt động của người, phương tiện trong khu vực biên giới biển nước CHXHCN Việt Nam.

(iv). Bộ Công Thương: Các tổ chức, cá nhân tự bỏ kinh phí điều tra khảo sát và chịu mọi trách nhiệm trong trường hợp dự án không được cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Các nguồn năng lượng tái tạo nếu được đưa vào quy hoạch cơ bản chỉ có tổng công suất, phần lớn không có tên và không có chủ đầu tư. Việc lựa chọn nhà đầu tư sẽ được thực hiện theo các quy định của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan.

(v). Bộ Giao thông Vận tải: Đối với một số khu vực biển đề xuất khảo sát mà chồng lấn với luồng hàng hải quốc gia, đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường không cấp phép khảo sát đo gió, địa chất, địa hình trên biển.

(vi). Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Việc đo gió, khảo sát địa chất địa hình trên biển không được xâm phạm các khu vực bảo tồn, nuôi trồng thủy sản hiện hữu.

Qua đó cho thấy còn có những vướng mắc cả về pháp lý và kỹ thuật cần được tháo gỡ, cụ thể như sau:

2.1. Vướng mắc về pháp lý:

Còn có cách hiểu khác nhau về việc cho phép (hoặc không cho phép) tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện hoạt động đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên biển.

Chưa quy định cụ thể về hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận việc đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển.

Chưa quy định “được phép” hay “không được phép” cùng thực hiện khảo sát trong trường hợp có nhiều đề xuất trong cùng một khu vực biển hoặc đề xuất có sự chồng lấn, giao thoa.

Chưa quy định cụ thể thời gian xem xét, thẩm định, chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển phục vụ lập dự án điện gió là bao nhiêu ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ.

Chưa quy định thời hạn chấp thuận thực hiện hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển.

Chưa quy định về nội dung báo cáo, thời điểm gửi báo cáo kết quả đến cơ quan đã chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển.

2.2.. Vướng mắc về kỹ thuật:

Chưa có quy định về diện tích khu vực biển chấp thuận cho sử dụng để đo gió, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển là bao nhiêu ha trên 1 MW công suất dự kiến đối với từng khu vực biển (mỗi vùng biển sẽ có quy định khác nhau khi tốc độ gió, mật độ gió, công suất tua bin, điều kiện địa chất, địa hình biển khác nhau).

Chưa có quy định công suất điện gió tối đa cho 1 dự án là bao nhiêu, chẳng hạn 0,5 GW, 1 GW hay 2 GW,… để vừa đảm bảo khuyến khích nhà đầu tư tham gia dự án, vừa đảm bảo cân đối hệ thống truyền tải điện.

Chưa có quy định công suất dự kiến để khảo sát là bao nhiêu GW trong từng thời kỳ quy hoạch cho phù hợp với tổng công suất điện gió ngoài khơi lũy kế đến năm 2030 được xác định khi Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) được phê duyệt.

Chưa có tiêu chí lựa chọn nhà phát triển dự án có kinh nghiệm, năng lực và có cam kết rõ ràng về tiến độ, chất lượng khảo sát điện gió ngoài khơi.

Chưa có quy hoạch các vùng biển có tiềm năng và khả năng phát triển điện gió.

III. Đề xuất, kiến nghị:

3.1. Giải pháp tháo gỡ đối với các vướng mắc về pháp lý:

Thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ năm 2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang gấp rút hoàn thành dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và Nghị định số 11/2021/NĐ-CP (gọi tắt là dự thảo Nghị định), trong đó đối với các vướng mắc về pháp lý nêu trên đã được giải quyết thông qua việc bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi Nghị định số 11/2021/NĐ-CP; cụ thể như sau:

Bổ sung trong Dự thảo Nghị định để thể hiện rõ nghĩa hơn, theo hướng khẳng định các tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép thực hiện hoạt động quan trắc, điều tra, khảo sát trên biển.

Bổ sung trong Dự thảo Nghị định theo hướng quy định cụ thể về hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận việc đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển.

Bổ sung trong Dự thảo Nghị định thời gian xem xét, thẩm định, chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển phục vụ lập dự án điện gió là “90 ngày” làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ đề xuất.

Bổ sung trong Dự thảo Nghị định quy định “được phép” cùng thực hiện khảo sát trong trường hợp có nhiều đề xuất trong cùng một khu vực biển hoặc đề xuất có sự chồng lấn, giao thoa.

Bổ sung trong Dự thảo Nghị định thời hạn chấp thuận thực hiện hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển là: 3 năm.

Bổ sung trong Dự thảo Nghị định thời điểm phải gửi báo cáo kết quả đến cơ quan đã chấp thuận hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển là: Sau 60 ngày, kể từ khi kết thúc hoạt động quan trắc, điều tra, khảo sát trên biển và làm rõ các nội dung cần báo cáo.

3.2. Giải pháp tháo gỡ đối với các vướng mắc về kỹ thuật:

Các vướng mắc về kỹ thuật có liên quan đến nhiều bộ, ngành, do vậy Bộ Tài nguyên và Môi trường kính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo:

a. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, xây dựng và ban hành quy định về:

Diện tích khu vực biển chấp thuận cho sử dụng để đo gió, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển là bao nhiêu ha trên 1 MW công suất dự kiến đối với từng khu vực biển (mỗi vùng biển sẽ có quy định khác nhau khi tốc độ gió, mật độ gió, công suất tua bin, điều kiện địa chất, địa hình biển khác nhau).

Công suất điện gió tối đa cho 1 dự án là bao nhiêu (0,5 GW, 1 GW hay 2 GW,…) để vừa đảm bảo khuyến khích nhà đầu tư tham gia dự án, vừa đảm bảo cân đối hệ thống truyền tải điện.

Công suất dự kiến để khảo sát là bao nhiêu GW trong từng thời kỳ quy hoạch cho phù hợp với tổng công suất điện gió ngoài khơi lũy kế đến năm 2030 được xác định khi Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) được phê duyệt.

b. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu, xây dựng và ban hành tiêu chí lựa chọn nhà phát triển dự án có kinh nghiệm, năng lực và có cam kết rõ ràng về tiến độ, chất lượng khảo sát điện gió ngoài khơi.

c. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương liên quan nghiên cứu, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền công bố các vùng biển có tiềm năng và khả năng phát triển điện gió.

3.3. Trong thời gian xử lý, tháo gỡ các vướng mắc nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường kính báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép tạm dừng việc thẩm định, chấp thuận về vị trí, ranh giới, diện tích, tọa độ, độ sâu, thời gian sử dụng khu vực biển cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị quyết về hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát địa chất, địa hình đánh giá tác động môi trường trên biển được nêu (tại Văn bản số 231/TB-VPCP ngày 05 tháng 8 năm 2022 của Văn phòng Chính phủ về Thông báo kết luận phiên họp thứ lần thứ ba của Ban Chỉ đạo Quốc gia thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 hoặc đến khi Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 11/2021/NĐ-CP và các nội dung kỹ thuật khác được ban hành).

3.4. Để tạo sự đồng bộ của chính sách phát triển điện gió ngoài khơi và tạo môi trường đầu tư thuận lợi, Bộ Tài nguyên và Môi trường kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách bảo đảm sự thống nhất từ khi đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển đến khi đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư, ký hợp đồng mua bán điện đối với các dự án điện gió ngoài khơi.

3.5. Thực hiện cam kết của Thủ tướng Chính phủ đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ XXI, Bộ Tài nguyên và Môi trường kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ chủ trì cuộc họp với một số bộ, ngành liên quan bàn về chủ trương, giải pháp phát triển điện gió ngoài khơi./.

BBT TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động