Nguy cơ thiếu điện và kiến nghị của BCĐQG về phát triển Điện lực
07:28 | 22/07/2019
Chính phủ đề nghị xem xét kiến nghị Tạp chí NLVN về địa điểm ĐHN Ninh Thuận
Thủ tướng đề nghị Tạp chí Năng lượng VN tiếp tục đóng góp cho ngành dầu khí
Bộ GTVT đồng ý với kiến nghị của Tạp chí NLVN về nhập khẩu than cho điện
Trong Báo cáo Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển Điện lực (Văn phòng BCĐ) đã tổng hợp tình hình thực hiện các nhiệm vụ mà BCĐ đã giao cho các bộ, ngành và các đơn vị liên quan; đánh giá tiến độ thực hiện các dự án trong quy hoạch 7 điều chỉnh; các khó khăn vướng mắc, đưa ra các giải pháp để đảm bảo cung ứng điện đến năm 2025. Đề xuất các kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định phê duyệt hoặc giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương thực hiện.
1. Về đầu tư phát triển nguồn điện
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, tổng công suất các nguồn điện dự kiến đưa vào vận hành trong giai đoạn 2016-2020 trên toàn hệ thống là 21.650 MW, trong đó: các nguồn điện do EVN đầu tư là 7.185 MW (chiếm 33,2%), các nguồn điện do các doanh nghiệp khác đầu tư là 14.465 MW (chiếm 66,8%).
Hiện nay, các dự án nguồn điện được thực hiện theo 3 hình thức đầu tư, gồm: các dự án do các tập đoàn nhà nước EVN, PVN, TKV là chủ đầu tư; các dự án đầu tư theo hình thức BOT; các dự án đầu tư theo hình thức IPP. Tổng hợp tình hình tiến độ thực hiện 62 dự án có công suất lớn trên 200 MW thì 15 dự án đạt tiến độ, còn lại 47 dự án chậm tiến độ, hoặc chưa xác định tiến độ so với QHĐ VII điều chỉnh.
Cân đối Cung - Cầu điện giai đoạn 2021-2025 (đơn vị: tỷ kWh)
TT | Hạng mục | 2021 | 2022 | 2023 | 2024 | 2025 |
1 | Nhu cầu phụ tải | 283,9 | 308,3 | 334,7 | 363,4 | 394,5 |
2 | Tổng nguồn hệ thống | 277,3 | 296,5 | 319,7 | 357,0 | 392,6 |
| Cân đối (thừa/thiếu) | -6,6 | -11,8 | -15,0 | -6,4 | -1,9 |
2. Về đầu tư phát triển lưới điện
Từ năm 2016 đến nay, EVN đã hoàn thành 160 công trình lưới điện 500-220kV. Tuy nhiên, việc xây dựng đường dây gặp nhiều trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, đồng thời phải điều chỉnh một số đoạn tuyến đường dây do chồng lấn với các qui hoạch chi tiết tại địa phương.
3. Những khó khăn vướng mắc chính
3.1. Về công tác quy hoạch:
Luật Quy hoạch năm 2017 có hiệu lực từ ngày 1/1/2019 đã ảnh hưởng đáng kể đến công tác lập, thẩm định và bổ sung quy hoạch các công trình điện dẫn đến kéo dài tiến độ thực hiện các công trình điện, ảnh hưởng đến tình hình cấp điện cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngày 7/5/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 37/2019/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch. Tuy nhiên, Bộ Công Thương vẫn chưa có cơ sở để giải quyết các nhiệm vụ do một số vướng mắc chính như sau:
- Về quy định về chuyển tiếp: Nghị định số 37/2019/NĐ-CP chưa quy định việc giải quyết chuyển tiếp điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các dự án trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến 2030 trước khi Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, có xét đến 2050 (Quy hoạch điện 8) và các Quy hoạch tỉnh được phê duyệt.
- Về phạm vi: Nghị định số 37/2019/NĐ-CP không quy định phạm vi dự án điện thuộc quy hoạch ngành (quy hoạch điện lực quốc gia) hoặc quy hoạch tỉnh.
Do chưa có quy định rõ ràng phạm vi dự án điện (nguồn điện theo quy mô công suất, lưới điện theo cấp điện áp) trong Quy hoạch điện lực quốc gia, hoặc quy hoạch tỉnh dẫn đến khó khăn trong quá trình lập, thẩm định và trình phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cho các dự án này.
- Về trình tự thủ tục bổ sung dự án vào quy hoạch: Theo quy định tại Luật Quy hoạch và Nghị định số 37/2019/NĐ-CP, việc điều chỉnh cục bộ các dự án vào quy hoạch giống như lập mới sẽ rất phức tạp, qua nhiều bước, nhiều cấp, không đáp ứng kịp thời cho phát triển kinh tế xã hội, giảm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
3.2. Về công tác đền bù giải phòng mặt bằng (GPMB):
- Quá trình thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc do văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ và chưa phù hợp như quy định về đơn giá đền bù tại một số địa phương chưa phù hợp.
- Khó khăn và kéo dài trong công tác định giá và lập phương án đền bù.
- Việc quản lý đất đai còn một số hạn chế, bất cập dẫn đến tranh chấp, khiếu nại trong nhân dân.
- Việc lập và bổ sung quy hoạch đất đai còn chưa cụ thể, chưa đủ chi tiết dẫn đến việc bị chồng lấn với các quy hoạch khác.
- Trình tự thủ tục kéo dài trong việc xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
- Về phía người dân còn chưa hợp tác, ủng hộ do đơn giá bồi thường chưa sát với thực tế, hoặc có tình trạng kéo dài thời gian đàm phán, thỏa thuận để nâng giá đền bù cao hơn nhiều so với thực tế...
Hiện nay, hầu hết các dự án điện gặp nhiều khó khăn về GPMB, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thi công các công trình. Đây là nguyên nhân chính làm chậm tiến độ các dự án.
- Quy định về thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất liên quan đến đất rừng, đất nông nghiệp làm cho công tác thỏa thuận mặt bằng các tuyến đường dây và các thủ tục chuyển đổi gặp nhiều khó khăn và thời gian thực hiện kéo dài.
- Theo quy định hiện hành, đất nằm ngoài hành lang lưới điện, nhưng kẹp giữa 2 đường dây 500 kV trở lên được xem xét bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định cụ thể về việc hỗ trợ, bồi thường.
3.3. Về thu xếp vốn đầu tư:
- Việc thu xếp vốn của các tập đoàn và các chủ đầu tư trong nước rất khó khăn do Chính phủ tạm dừng chủ trương bảo lãnh vay vốn.
- Các nguồn vốn ODA vốn vay ưu đãi nước ngoài để đầu tư các dự án điện rất hạn chế, thậm chí một số khoản vay đã có cam kết của các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, nhưng không được các cơ quan quản lý nhà nước chấp thuận.
- Việc thu xếp các nguồn vốn trong nước rất khó khăn, hiện tại hầu hết các ngân hàng trong nước đã vượt hạn mức tín dụng đối với chủ đầu tư và các đơn vị liên quan.
3.4. Về thủ tục đầu tư xây dựng (ĐTXD):
- Các quy định hiện hành về ĐTXD còn thiếu tính thống nhất, chưa rõ ràng, chồng chéo gây nên những khó khăn nhất định và dẫn tới công tác chuẩn bị đầu tư bị kéo dài (vướng mắc giữa Luật đầu tư, Luật Xây dựng, Luật quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Đầu tư công...), như vướng mắc trong việc trình duyệt và cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án (đặc biệt các dự án điện nhóm A có tổng mức đầu tư từ 2.300 tỷ đến 5.000 tỷ đồng).
- Quá trình đàm phán bộ hợp đồng BOT và cấp giấy phép đầu tư vẫn bị kéo dài do liên quan đến nhiều bộ, ngành. Các vướng mắc chủ yếu đến từ các vấn đề chính sách ưu đãi, chuyển đổi ngoại tệ, chấm dứt sớm hợp đồng… Thời gian xem xét, cho ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các vấn đề liên quan thường kéo dài.
- Một số công trình lưới điện truyền tải quan trọng cần hoàn thành trong giai đoạn 2016-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong kế hoạch 5 năm của EVN, tuy nhiên gặp khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai do có sự sai khác về tiến độ so với Quy hoạch điện 7 điều chỉnh.
- Thời gian thẩm tra, thẩm định các dự án bị kéo dài do nhiều thủ tục phức tạp, nhiều bước như: thẩm tra, thẩm định các giai đoạn thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật của dự án; Công tác lập, hoàn thiện hồ sơ báo cáo đánh giá tác động môi trường mất nhiều thời gian...
3.5. Việc đảm bảo nhiên liệu cho phát điện khó khăn và tiềm ẩn rủi ro:
Các nguồn nhiệt điện truyền thống sử dụng than, khí tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo an ninh cung cấp điện đến năm 2025. Tuy nhiên, việc cung cấp than, khí cho phát điện đang gặp rất nhiều khó khăn:
- Trong thời gian qua, nhu cầu than cho sản xuất điện đã liên tục tăng, từ 26,25 triệu tấn năm 2015 lên 44,37 triệu tấn năm 2018 (tăng 69%). Năm 2019, nhu cầu than cho sản xuất điện là 54,3 triệu tấn, trong đó nhu cầu than antraxit là 44,5 triệu tấn. Khả năng sản xuất than antraxit trong nước để cấp cho sản xuất điện của TKV và TCT Đông Bắc hiện nay chỉ ~36 triệu tấn (bằng ~80% nhu cầu) nên phải nhập khẩu và pha trộn than nhập để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ. Trong các năm tới, nhu cầu than antraxit sẽ tiếp tục tăng cao khi một số nhà máy mới vào vận hành như: Hải Dương, Nam Định, Thái Bình 2, Bắc Giang, Công Thanh... nên tình hình sẽ còn khó khăn hơn.
- Hiện nay, phương án đầu tư xây dựng cảng trung chuyển than vẫn chưa rõ. Các nhà máy nhiệt điện Long Phú 1, Sông Hậu 1 dự kiến cấp than bằng cảng Gò Da theo phương án sang mạn tàu; nhiệt điện Long Phú 2, Sông Hậu 2 chưa rõ phương án vận chuyển than.
- Về cung cấp khí: khí cho phát điện đang được cấp từ các mỏ khí tại khu vực Đông Nam bộ và Tây Nam bộ, các nguồn khí này không đáp ứng đủ cho các nhà máy điện hiện hữu và đã bắt đầu suy giảm sản lượng nhưng hiện chưa có nguồn khí bổ sung nào đáng kể.
Khí Đông Nam Bộ cấp cho cụm nhiệt điện Phú Mỹ sẽ suy giảm từ sau năm 2020, tới năm 2023, 2024 dự kiến sẽ thiếu hụt khoảng 2-3 tỷ m3/năm và lượng thiếu hụt này tăng rất nhanh tới trên 10 tỷ m3 năm 2030. Khí Tây Nam bộ cung cấp cho cụm nhiệt điện Cà Mau cũng sẽ thiếu hụt từ năm 2019 với lượng thiếu hụt từ 0,5-1 tỷ m3. Hiện nay, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang đàm phán với phía Malaysia để mua thêm khí bổ sung vào nguồn thiếu hụt này.
- Các dự án khí Lô B, Cá Voi Xanh tiến độ triển khai chậm so với dự kiến của Quy hoạch điện 7 điều chỉnh.
3.6. Nhiều dự án nguồn điện chậm tiến độ so với quy hoạch:
Căn cứ kết quả rà soát tiến độ các dự án nguồn điện lớn, tổng công suất các nguồn điện có thể đưa vào vận hành trong cả giai đoạn 15 năm 2016-2030 khoảng 78.300 MW, thấp hơn 17.500 MW so với dự kiến của Quy hoạch điện 7 điều chỉnh.
Đặc biệt, trong 5 năm tới (2019-2023), tổng công suất các nguồn điện dự kiến hoàn thành theo quy hoạch là 37.700 MW, trong đó có 30 dự án NĐ than, khí với tổng công suất khoảng 28.800 MW. Tuy nhiên, đến nay chỉ có 8 dự án nhiệt điện với tổng công suất 8.460 MW đã khởi công và đang triển khai xây dựng. Như vậy, còn 22 dự án nhiệt điện với tổng công suất 20.000 MW chưa được khởi công xây dựng nên không thể hoàn thành trong 5 năm tới. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng hệ thống điện từ chỗ có dự phòng khoảng 20% trong các năm 2015-2016, đến nay hầu như không còn dự phòng và sang giai đoạn 2021-2025 khả năng xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn điện.
3.7. Việc gia tăng nhanh chóng các nhà máy điện mặt trời (ĐMT) đã tác động lớn đến lưới điện và công tác vận hành:
Hiện nay, các dự án ĐMT được đề xuất đã lên đến gần 25.000 MW (gấp hơn 2 lần quy mô dự kiến tại Quy hoạch điện 7 điều chỉnh đến năm 2030). Đây là các loại hình nguồn điện có tính bất định cao, phụ thuộc vào yếu tố thời tiết và chỉ phát điện khoảng 20% số giờ trong năm. Theo xu hướng chung trên thế giới, các nguồn điện NLTT phải được kết hợp với các loại hình nguồn điện khác để tăng cường tính ổn định cho hệ thống. Việc phát triển nóng các dự án NLTT, đặc biệt thời gian xây dựng các dự án ĐMT rất nhanh, chỉ khoảng 6-12 tháng và tập trung chủ yếu tại một số tỉnh có tiềm năng như Ninh Thuận, Bình Thuận, Đăk Lăk,... đang gây áp lực lớn lên hệ thống điện truyền tải (do lưới điện truyền tải không thể xây dựng đồng bộ vì thời gian đầu tư lưới điện 220 kV tối thiểu 3 năm, lưới 500 kV từ 4-5 năm).
Một số dự án điện mặt trời đã xây dựng xong, nhưng do vướng mắc trong các thủ tục đền bù, giải phóng mặt bằng, thi công tuyến đường dây đấu nối, đường dây truyền tải công suất của dự án bị chậm, không kịp đưa vào vận hành trong tháng 6 năm 2019 và có đề xuất sử dụng cấp điện áp 22 kV để công nhận ngày vận hành thương mại, nhưng còn vướng các quy định và thủ tục liên quan chưa được hoàn thiện.
4. Một số giải pháp đảm bảo cung ứng điện đến năm 2025
Để đảm bảo cung ứng điện đến năm 2025, thời gian tới cần thực hiện các giải pháp sau:
4.1. Các chủ đầu tư phải đảm bảo tiến độ các dự án nguồn điện lớn trong giai đoạn 2021-2025, gồm: NĐ BOT Hải Dương (hoàn thành năm 2021), NĐ BOT Duyên Hải 2 (2022), NĐ BOT Vân Phong 1 (2023); NĐ Sông Hậu 1 (PVN - 2021), NĐ Thái Bình 2 (PVN - 2022), NĐ Long Phú 1 (PVN-2023), NĐ Nhơn Trạch 3 và 4 (PVN - 2023-2024).
4.2. Tăng cường nhập khẩu điện từ Trung Quốc và Lào, đồng thời bổ sung quy hoạch các công trình lưới điện 220 kV liên quan đến mua điện nhập khẩu. Xem xét, chấp thuận để EVN ký hợp đồng mua điện với các chủ đầu tư các NM thủy điện tại Lào với giá điện đã được được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
4.3. Đôn đốc, đảm bảo tiến độ của khí Cá Voi Xanh và cụm Nhiệt điện miền Trung vận hành các năm 2023-2024; kiểm soát chặt chẽ tiến độ của Chuỗi dự án.
4.4. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Đông Bắc tăng cường năng lực khai thác, tăng khả năng cấp than cho sản xuất điện. Đồng thời Thủ tướng Chính phủ giao các cơ quan chức năng xem xét, nghiên cứu việc các đơn vị phát điện được mua than nhập khẩu nhằm đảm bảo than cho các NMĐ.
4.5. Cho phép EVN nghiên cứu phương án thuê, hoặc mua điện của các nhà máy điện nổi (dùng nhiên liệu LNG) để có thể bổ sung nguồn cấp ngay từ năm 2021.
4.6. PVN tiếp tục chủ động tìm kiếm các nguồn khí mới để thay thế bổ sung cho các nguồn khí hiện hữu tại khu vực Đông Nam bộ và Tây Nam bộ.
4.7. Trong trường hợp thực sự cần thiết, xem xét việc đề nghị các khách hành sử dụng nguồn diesel/máy phát điện dự phòng để đảm bảo cung cấp điện.
4.8. Tăng cường thực hiện các giải pháp kiểm soát nhu cầu phụ tải như: tăng cường tiết kiệm điện, triển khai mạnh mẽ các chương trình kiểm toán năng lượng, tăng cường thực hiện chương trình quản lý nhu cầu điện (DSM), ưu tiên tại khu vực miền Nam; Khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời áp mái, đặc biệt khu vực phía Nam để giảm áp lực nguồn cung.
4.9. Đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng các dự án điện. Có biện pháp quyết liệt theo quy định của pháp luật để giải quyết dứt điểm những khó khăn trong giải phóng mặt bằng các dự án điện, đặc biệt là các dự án nguồn điện trọng điểm, các dự án lưới điện truyền tải quan trọng phục vụ giải tỏa công suất các trung tâm điện lực.
5. Một số kiến nghị
Báo cáo của văn phòng BCĐ đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét chỉ đạo một số nội dung:
Thứ nhất, về nguồn điện:
1/ Các chủ đầu tư phải đảm bảo tiến độ các dự án nguồn điện theo Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, đặc biệt các nguồn điện khu vực miền Nam.
2/ Chỉ đạo giải quyết tháo gỡ những vướng mắc của các dự án NĐ Thái Bình 2, Long Phú 1.
3/ Chỉ đạo các địa phương, bộ, ngành liên quan thực hiện quyết liệt, dứt điểm công tác giải phóng mặt bằng các dự án điện, đặc biệt là các dự án cấp bách, các dự án lưới điện phục vụ giải tỏa công suất các nguồn điện (bao gồm cả thủy điện, điện gió và điện mặt trời).
4/ Có ý kiến chỉ đạo UBND các tỉnh quan tâm và ủng hộ việc triển khai đầu tư các dự án NĐ sử dụng nhiên liệu than theo đúng Quy hoạch điện 7 điều chỉnh và đẩy sớm tiến độ hoàn thành các dự án để khắc phục tình trạng thiếu điện tại miền Nam.
Thứ hai, về các dự án lưới điện:
1/ Các dự án đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định danh mục phê duyệt trong kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm của EVN (QĐ số 219/QĐ-TTg ngày 13 tháng 2 năm 2018) mà chưa được nêu trong Quyết định phê duyệt Quy hoạch điện 7 điều chỉnh (QĐ số 428/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2016): đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng QĐ số 219/QĐ-TTg như là thủ tục của quy hoạch, mà không cần phải thực hiện thủ tục bổ sung quy hoạch.
2/ Đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Bộ Công Thương xem xét quyết định các dự án đã có trong danh mục QHĐ 7 điều chỉnh mà chỉ đề xuất thay đổi mốc tiến độ (vượt/lùi) trong vòng 5 năm so với tiến độ nêu trong quyết định số 428/QĐ-TTg (chuyển giai đoạn 2021-2025 sang giai đoạn 2016-2020; hoặc chuyển giai đoạn 2026-2030 thành giai đoạn 2021-2025).
Thứ ba, về đẩy nhanh tiến độ các dự án nguồn và lưới điện cấp bách:
1/ Cho phép các dự án điện thuộc trường hợp công trình xây dựng theo lệnh khẩn cấp hoặc các công trình xây dựng nhằm đảm bảo an ninh cung cấp điện thì chỉ phải xin chủ trương điều chỉnh quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 Luật Quy hoạch 2017 mà không phải thực hiện các thủ tục lập, thẩm định, quyết định, hoặc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch theo quy định tại Khoản 2 Điều 54 Luật quy hoạch 2017.
2/ Cho phép EVN triển khai đầu tư các công trình lưới điện truyền tải trong kế hoạch 5 năm đã được Thủ tướng CP phê duyệt theo Quyết định số 219/QĐ-TTg ngày 13/2/2018 mà không phải thực hiện điều chỉnh, bổ sung qui hoạch.
3/ Cho phép các ngân hàng thương mại trong nước cho EVN và các đơn vị vay vốn để đầu tư các dự án điện được phép vượt các quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng khi cho vay theo qui định tại Quyết định số 13/2018/QĐ-TTg ngày 6/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
4/ Đối với các dự án nhóm A (không sử dụng vốn đầu tư công) đã có trong quy hoạch và kế hoạch đầu tư xây dựng, cho phép chủ đầu tư triển khai ngay công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, không phải lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và hồ sơ chủ trương đầu tư.
LÃ HỒNG KỲ - HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM