Biến đổi khí hậu và phát triển bền vững
06:05 | 11/06/2012
Tác động BÐKH và nỗ lực ứng phó
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước bị tác động mạnh mẽ bởi BÐKH, đặc biệt, đồng bằng sông Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế giới dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng. Trong vòng 50 năm qua nhiệt độ trung bình ở nước ta đã tăng khoảng 0,50C, mực nước biển đã dâng khoảng 20 cm.
Biến đổi khí hậu đã làm cho thiên tai ngày càng khốc liệt, gây nhiều tổn thất về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động xấu đến môi trường sống. Nếu mực nước biển dâng cao 1 m, kéo theo khoảng 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển bị ngập. Thành phố Hồ Chí Minh cũng sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10 -12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP.
Nhận thức rõ tác động nghiêm trọng của BÐKH đến sự phát triển bền vững của đất nước, Chính phủ đã có những nỗ lực quan trọng ứng phó. Theo đó, từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho ứng phó với BÐKH; phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BÐKH và Chiến lược quốc gia về BÐKH; xây dựng các kịch bản BÐKH; triển khai Chương trình khoa học và công nghệ về BÐKH; các bộ, ngành và địa phương triển khai kế hoạch hành động ứng phó với BÐKH; công tác đàm phán, kêu gọi tài trợ quốc tế được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả khả quan.
Tuy nhiên, các hoạt động ứng phó với BÐKH chú trọng nhiều đến các tác động tiêu cực mà chưa quan tâm đúng mức đến việc chuyển đổi lối sống, mẫu hình sản xuất và tiêu thụ theo hướng tăng trưởng xanh, ứng phó với BÐKH song song với phát triển nhằm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế và vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong ứng phó với BÐKH của Việt Nam là việc thích ứng cần phải được coi là vấn đề trọng tâm. Thích ứng với BÐKH cần được lồng ghép vào quy hoạch phát triển KT-XH ở các quy mô. Thích ứng sẽ là một quá trình liên tục trong nhiều thập kỷ với những nhu cầu riêng biệt, nhưng liên quan với nhau ở các giai đoạn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đặc biệt là rất cấp thiết ở cấp địa phương.
Ðầu tư cho các biện pháp thích ứng, cụ thể là cho cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ giảm được chi phí rất lớn trong tương lai. Cần đánh giá các kế hoạch mở rộng thành phố, khu công nghiệp mới, dịch vụ môi trường và cơ sở hạ tầng.
Ðầu tư để tăng cường khả năng chống chịu với BÐKH thông qua việc tạo công ăn việc làm, bảo vệ cuộc sống và tài sản của nhân dân. Thích ứng trong nông nghiệp cần được quan tâm, thông qua phát triển các loại cây trồng chịu được điều kiện khí hậu khắc nghiệt, phát triển các cơ chế bảo hiểm và các ứng dụng nghiên cứu và triển khai nông nghiệp. Tăng cường quản lý rủi ro thiên tai cũng là một ưu tiên...
Rào cản, thách thức và cơ hội
Sau Hội nghị BÐKH toàn cầu lần thứ 17 tại Nam Phi năm 2011, trên thế giới đang hình thành các chính sách về giảm phát thải khí nhà kính (KNK) có thể tạo ra các rào cản mới trong thương mại. Một số chính sách về vấn đề này như:
EU và Hoa Kỳ dự kiến đưa loại rào cản "điều chỉnh biên giới cácbon" nhằm tạo ra sự cân bằng về sân chơi cho các nhà sản xuất trong nước đối với hàng hóa nhập từ các nước đang phát triển thiếu những quy định nghiêm ngặt về phát thải KNK.
Ô-xtrây-li-a công bố kế hoạch đánh thuế 23 đôla Ô-xtrây-li-a cho mỗi tấn khí thải cácbon. Pháp dự kiến đánh thuế 17 Ơ rô vào mỗi tấn khí thải cácbon. EU áp dụng thuế cácbon trong lĩnh vực hàng không, quy định các chuyến bay đến khu vực này phải "mua lại" 15% lượng khí thải của mình. EU dự kiến sử dụng "thuế quan xanh" đối với hàng hóa được một số tổ chức phi chính phủ chứng nhận là "bền vững"...
Những rào cản đã, đang và sẽ hình thành trên quy mô khu vực, toàn cầu sẽ tạo ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, vốn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và lợi thế lao động rẻ.
Trong tương lai gần, mô hình sản xuất tiêu thụ nhiều năng lượng, làm tăng lượng phát thải KNK của nước ta sẽ không phù hợp với xu thế chung, đòi hỏi mỗi quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển phải có những hành động giảm phát thải KNK. Từ góc nhìn đó, giảm nhẹ BÐKH nên được coi là cơ hội kinh tế, xã hội và môi trường. Giảm phát thải trên một đơn vị GDP nên là hướng tiếp cận, theo mô hình tăng trưởng xanh - cácbon thấp, đặt mục tiêu giảm nhẹ phát thải để bảo đảm an ninh năng lượng.
Chiến lược phát triển cácbon thấp cần có những ưu tiên rõ ràng và có hệ thống giám sát và báo cáo. Các hành động giảm nhẹ phù hợp của quốc gia (NAMA) có thể sẽ đóng vai trò quan trọng để nhận sự hỗ trợ tài chính và công nghệ quốc tế.
Chiến lược đầu tư cho thích ứng và giảm nhẹ BÐKH là cần thiết, khuyến khích các cơ chế sáng tạo, gồm cả tài chính, để cạnh tranh và bảo đảm đầu tư quy mô lớn, kết hợp các nguồn tài chính khác nhau. Thích ứng có thể sẽ chủ yếu do đầu tư công, được sắp xếp ưu tiên theo thời gian, địa lý và theo từng ngành, và cần có kế hoạch vận động hỗ trợ quốc tế. Giảm nhẹ BÐKH chủ yếu có thể sẽ do đầu tư từ các doanh nghiệp. Cần có các chính sách tài chính và các quy định để vừa ứng phó với BÐKH vừa tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Có nhiều cơ hội thu hút tài chính quốc tế có thể tận dụng, gồm: đầu tư trực tiếp; thị trường cácbon và các cơ chế song phương và đa phương, bao gồm Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ Môi trường toàn cầu, Quỹ Thích ứng BÐKH, và Quỹ Ðầu tư khí hậu.
An ninh năng lượng và giá năng lượng sẽ là các yếu tố chi phối kinh tế toàn cầu. Các công ty dầu mỏ lớn đã chuẩn bị đầu tư cho các nguồn năng lượng mới, nhiều nước đã đặt mục tiêu năng lượng tái tạo để thay thế phần lớn hoặc hầu hết điện năng vào năm 2050.
Có nhiều cơ hội cho các ngành kinh doanh ít cácbon, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà một trong những nhà máy sản xuất pin năng lượng mặt trời lớn trên thế giới sẽ được xây dựng. Ðầu tư như vậy sẽ tạo ra giá trị gia tăng lớn và tăng năng lực cạnh tranh cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô lâu dài. Ngành công nghiệp ít cácbon đòi hỏi phải đo được phát thải, sử dụng năng lượng ở cấp cơ sở; thực hiện các mục tiêu giảm năng lượng và kiểm toán năng lượng cho các cơ sở chính; xây dựng được các thủ tục báo cáo sử dụng năng lượng và khí thải ở cấp cơ sở.
PGS, TS. Trần Thục
Ứng phó với BÐKH đòi hỏi có sự thay đổi trong tư tưởng, chiến lược và quan điểm về BÐKH nhằm xây dựng một nền tảng phù hợp với sự thay đổi trong hệ thống KT-XH, môi trường, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên. Do đó, công tác nghiên cứu, dự báo vô cùng quan trọng, không chỉ cung cấp thông tin và giải pháp cho phòng, tránh thiên tai kịp thời mà còn bảo đảm các căn cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách lâu dài trong nước cũng như quan hệ quốc tế để thích ứng với BÐKH, đồng thời giảm nhẹ phát thải KNK, góp sức cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất.