Đường dây siêu cao áp 500kV: "Đường điện Trường Sơn"
19:57 | 18/05/2014
>> Ý chí siêu cao áp 500kV Bắc - Trung - Nam
>> Đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam: Một mốc son lịch sử
HOÀNG QUỐC VƯỢNG
Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Điện lực Việt Nam
Một quyết định táo bạo, một quyết định sáng suốt…
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986), với chủ trương đổi mới đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến tích cực. Nhờ đó đã tạo tiền đề định hướng quan trọng cho sự phát triển của đất nước giai đoạn đến năm 2000 đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) thông qua, với mục tiêu ”Ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990”, trong đó đề ra các chỉ tiêu giai đoạn 1991 - 1995 như: tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp bình quân đạt từ 10% đến 11%, GDP tăng từ 6% đến 6,5%... đây là một áp lực rất lớn đối với ngành Điện Việt Nam của những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
Vào thời điểm đó, các nhà máy điện khu vực miền Bắc không phát huy được tối đa công suất do nhu cầu thấp; khu vực miền Nam với một nền kinh tế năng động lại có nhu cầu điện rất lớn, trong khi công suất lắp đặt các nhà máy của miền Nam chỉ đáp ứng được 89,73% (lắp đặt 1.005MW, nhu cầu 1.120MW). Vì vậy, ở khu vực miền Nam, việc cắt điện luân phiên hoặc đột xuất hầu như xảy ra tất cả các ngày trong tuần. Khu vực miền Trung được cấp điện chủ yếu qua đường dây 220kV Vinh - Đồng Hới nhận điện từ Hòa Bình, đường dây 66kV từ Nhà máy thủy điện Đa Nhim cấp cho Cam Ranh - Khánh Hòa và một số nguồn diesel nhỏ tại chỗ. Do đường dây quá dài nên công suất truyền tải bị hạn chế và chất lượng điện cuối nguồn không đảm bảo.
Trước việc áp lực cấp điện cho miền Nam, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra 2 phương án giải quyết là bán điện thừa của miền Bắc cho Trung Quốc, xây dựng nguồn điện mới tại miền Nam và miền Trung, hoặc xây dựng đường dây siêu cao áp truyền tải điện năng dư thừa từ miền Bắc vào miền Nam và miền Trung. Sau khi xem xét đến nhiều yếu tố kỹ thuật, chính trị, an ninh năng lượng, Chính phủ Việt Nam đã quyết định chọn phương án xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam.
Các chiến dịch về công tác khảo sát, thiết kế, thẩm định, mua sắm và xây dựng công trình
Trên cơ sở định hướng xây dựng đường dây siêu cao áp thống nhất hệ thống điện đã được đề cập trong Tổng sơ đồ phát triển điện lực giai đoạn 1 (1981 - 1985) của Việt Nam được lập với sự hợp tác của Liên Xô và các nghiên cứu không mệt mỏi của các cán bộ tư vấn, dưới sự chủ trì của Công ty Khảo sát Thiết kế điện 1 (nay là CTCP Tư vấn Xây dựng điện 1) cùng sự tham gia của các đơn vị tư vấn là Công ty Khảo sát Thiết kế điện 2 (nay là CTCP Tư vấn Xây dựng điện 2) và Phân viện Thiết kế điện Nha Trang (nay là CTCP Tư vấn Xây dựng điện 4).
Khối lượng khảo sát thiết kế là rất lớn, khoảng 2.000km khảo sát đo vẽ địa hình lập mặt cắt dọc, 500km lập mặt cắt dọc pha; 200ha phục vụ đo bình đồ tỉ lệ 1/200 tại các góc lái; 5.200m khoan thăm dò ở các vị trí có nguy cơ sạt lở; thí nghiệm khoảng 15.000 mẫu đất đá... trên tổng chiều dài 1.487km đường dây và 5 trạm biến áp. Thiết kế của công trình đã được phản biện bởi nhiều cơ quan trong nước như Viện Năng lượng, Đại học Bách Khoa Hà Nội và các nhà chuyên môn độc lập trong nước. Mô hình thiết kế về sơ đồ, dung lượng bù, chế độ vận hành và ổn định hệ thống, thông số thiết bị, sơ đồ liên động... được nhiều tổ chức nước ngoài hỗ trợ kỹ thuật và kiểm chứng như: Viện Thiết kế lưới Ucraina, Viện Thiết kế lưới Saint Peterburg, Công ty Nippon Koei... với mục tiêu thiết kế đường dây là để truyền tải sản lượng điện khoảng 2.000GWh vào miền Nam mỗi năm, với công suất đỉnh là từ 600MW - 800MW.
Với các kết quả nghiên cứu khoa học và xét đến nhiều yếu tố kỹ thuật, chính trị, an ninh năng lượng, tháng 1/1992 công trình được Bộ Chính trị thông qua và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) có Quyết định số 61/CT ngày 25/2/1992 phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật, với quyết định thời gian hoàn thành là 2 năm, do thời gian khẩn cấp của dự án nên đã cho phép thực hiện dự án theo phương thức khảo sát, thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song.
Với quyết định mang tính lịch sử nêu trên, ngày 5/4/1992, tại các vị trí móng số 54, 852, 2702, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã phát lệnh khởi công xây dựng công trình. Theo sự phân công của Chính phủ, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Tổng chỉ huy công trình đường dây 500kV Bắc - Nam.
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, cơ chế chính sách hợp lý trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, chế độ hợp lý đối với người lao động tham gia trên công trường, sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Năng lượng, sự quyết tâm lớn và sức lao động bền bỉ, tận tụy của tập thể cán bộ, lãnh đạo Ban QLDA, các cán bộ kỹ sư thiết kế, các công ty xây lắp điện 1,2,3,4, Tổng công ty Sông Đà và hỗ trợ rất lớn từ lực lượng quân đội như Binh đoàn 12, Binh đoàn 15, Quân khu 4, Quân khu 5, Quân đoàn 1, Quân đoàn 3 và nhiều đơn vị khác, cũng như sự giúp đỡ và tạo điều kiện về mọi mặt của chính quyền 17 tỉnh, thành phố và nhân dân trong khu vực mà đường dây đi qua, để sau 2 năm thi công xây dựng, dự án đã hoàn thành một khối lượng lớn, với tổng giá trị thực hiện quyết toán là 5.488,39 tỷ đồng (tương đương 544 triệu đô la Mỹ) bằng nguồn vốn trong nước, thấp hơn 225,59 tỷ đồng so với TKKT-TDT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 14/TTg ngày 15/1/1994, thể hiện qua các số liệu cụ thể như sau:
Đối với đường dây: Đã đào đúc và lắp dựng 3.437 cột tháp sắt (trong đó có 12 vị trí đảo pha); căng 1.487km dây dẫn (mỗi pha 4 dây) và dây chống sét (hai dây chống sét, trong đó 1 dây có mang dây cáp quang); xây dựng 22 trạm lặp cáp quang, 19 chốt vận hành đường dây; đổ 280.000m3 bêtông móng, với 23.000 tấn cốt thép; 60.000 tấn cột điện, 23.000 tấn dây dẫn và 930 tấn dây chống sét; 6.300 tấn cách điện.
Đối với trạm biến áp: Đã xây dựng 5 TBA 500kV Hòa Bình, Hà Tĩnh (trạm bù), Đà Nẵng, Pleiku, Phú Lâm. Giai đoạn 1 (5/1994) lắp đặt 1 MBA 500kV- 3x150MVA tại trạm Hòa Bình và 1 MBA 500kV- 3x150MVA tại trạm Phú Lâm. Đến tháng 9/1994, lắp đặt thêm 3 MBA 500kV- 3x150MVA tại các trạm Hòa Bình, Phú Lâm, Đà Nẵng và đến tháng 11/1994, lắp đặt thêm 1 MBA 500kV- 3x150MVA tại trạm Pleiku.
Và đúng vào thời khắc lịch sử, 19 giờ 6 phút ngày 27/5/1994, tại Trung Tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam, với 4 tổ máy của Nhà máy thủy điện Hòa Bình tại trạm Đà Nẵng qua đường dây 500kV Bắc - Nam, chính thức đưa hệ thống điện 500kV Bắc - Nam vào vận hành.
Ý nghĩa của công trình đường dây siêu cao áp 500 kV
Đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam đưa vào vận hành đánh dấu sự phát triển vượt bậc của ngành điện Việt Nam.
Việc hoàn thành đưa vào vận hành công trình đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 đã giải quyết căn bản tình trạnh thiếu điện của miền Nam và miền Trung được minh chứng qua các số liệu: Điện thương phẩm của toàn quốc với mức độ tăng trưởng từ 5-6% giai đoạn 1990-1992 đã có mức tăng trưởng đột biến lên 18,2% giai đoạn 1993-1997, với đỉnh điểm là 21% năm 1995, trong đó khu vực miền Trung và miền Nam là 21% giai đoạn 1993-1997 và năm 1995 là 25%. Với những đóng góp trên là một phần không nhỏ để nền kinh tế của đất nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng GDP từ 5,1% vào năm 1990 lên 9,5% vào năm 1995, trong đó tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp bình quân đạt từ 12% đến 14% trong giai đoạn 1990-1995, vượt các chỉ tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra.
Thống nhất hệ thống điện Việt Nam, về mặt kỹ thuật, việc hoàn thành đưa vào vận hành công trình đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 đã hợp nhất hệ thống điện ba miền Bắc, Trung, Nam (trước dây vận hành độc lập với nhau), nhờ đó tăng cường được sự hỗ trợ qua lại của hệ thống điện giữa các miền, tăng tính ổn định và độ tin cậy chung của toàn hệ thống điện Quốc gia.
Về mặt quản lý vận hành hệ thống điện, Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia đã được thành lập, đầu tiên là để quản lý hệ thống 500kV, đến năm 1999 Trung tâm này tiếp nhận quản lý toàn bộ các nhà máy điện và 3 Trung tâm Điều độ hệ thống điện miền. Đồng thời, với việc thành lập Tổng công ty Điện lực Việt Nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam), các công ty điện lực 1, 2, 3 được tách thành các công ty truyền tải điện và một số công ty điện lực, hệ thống điện Việt Nam được quy về một mối quản lý theo mô hình Tổng công ty Nhà nước.
Sự lớn mạnh không ngừng của các Công ty Tư vấn thiết kế Xây dựng điện 1, 2, 3, 4: Việc hoàn thành đưa vào vận hành công trình đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 đã tạo điều kiện rất lớn cho các công ty tư vấn thiết kế nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao năng lực trong công tác thiết kế lưới điện. Khi thiết kế công trình đường dây 500kV mạch 1, các đơn vị tư vấn còn phải nhờ sự hỗ trợ, kiểm chứng của các tổ chức tư vấn nước ngoài, đến nay, các đơn vị tư vấn thiết kế đã tự mình thiết kế được nhiều công trình có cấp điện áp 500kV mà không cần phải hỗ trợ của tư vấn nước ngoài, cụ thể như đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 2, đường dây 500kV Sơn La - Hòa Bình, Sơn La - Nho Quan, đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông...
Sự lớn mạnh không ngừng của các đơn vị trong nước về gia công, chế tạo kết cấu thép, sản xuất dây dẫn, dây chống sét, cáp quang và phụ kiện: khi xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1, chúng ta phải nhập khẩu cột thép, dây dẫn, dây chống sét, cáp quang và phụ kiện thì đến nay các đơn vị trong nước đã tự sản xuất và cung cấp các vật tư này cho nhiều công trình đường dây có cấp điện áp đến 500kV.
Sau hơn 10 năm vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1, ngày 23/9/2005 ngành điện Việt Nam lại đánh dấu một kỳ tích, đó là hoàn thành đóng điện đưa vào vận hành đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 2. Với việc đưa vào vận hành 2 mạch đường dây 500kV Bắc - Nam đã giải quyết cơ bản tình trạng quá tải khai thác Nhà máy thủy điện Ialy (720MW) và cùng với nhiều giải pháp khác đã giải quyết thiếu điện rất lớn ở miền Bắc và đặc biệt là khu vực Hà Nội vào giai đoạn 2005-2008, mà theo tính toán trong trường hợp có sự cố hay sửa chữa đường dây mạch 1, hệ thống điện miền Bắc sẽ phải sa thải một lượng công suất từ 1.150MW đến 1.300MW, mất điện diện rộng và lượng phụ tải cần sa thải có thể chiếm tới 30-34% công suất hệ thống điện miền Bắc nếu không có mạch 2. Ngoài ra, cùng với việc vận hành cả 2 mạch đường dây 500kV đã thực sự là đường dây liên kết hệ thống truyền tải điện năng theo cả hai chiều, nâng cao độ an toàn, ổn định cung cấp và chất lượng điện, đồng thời tạo điều kiện để khai thác được tối ưu các nguồn điện hiện có trong hệ thống.
Công tác quản lý đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải ngày càng lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhìn lại cách đây 20 năm, khi đường dây 500kV mạch 1 được đưa vào vận hành, hệ thống lưới điện truyền tải của nước ta có quy mô còn khiêm tốn, đến 31/12/2013, khối lượng lưới điện truyền tải đã có bước tăng trưởng vượt bậc, với quy mô 20 trạm biến áp 500kV, 75 trạm 220kV, khối lượng đường dây 500kV tăng 3,72 lần, đường dây 220kV tăng 6,18 lần, dung lượng trạm biến áp 500kV tăng 14,3 lần và dung lượng trạm biến áp 220kV tăng 11,8 lần. Đến nay, lưới điện truyền tải quốc gia do EVNNPT quản lý đã phát triển đến 61/63 tỉnh, thành, các trạm biến áp 500-220kV đã được xây dựng và đưa vào vận hành ở 57/63 tỉnh, thành. Hệ thống lưới điện 500kV không chỉ đóng vai trò liên kết lưới điện các miền, đấu nối các nhà máy điện vào hệ thống mà đã được hoàn thiện tạo thành các mạch vòng quan trọng, đảm bảo cung cấp điện cho các thành phố lớn và các vùng trọng điểm kinh tế của đất nước như: mạch vòng 500kV Phú Mỹ - Sông Mây - Tân Định - Phú Lâm - Nhà Bè; Sơn La - Hiệp Hòa - Quảng Ninh - Thường Tín - Nho Quan - Hòa Bình. Lưới điện truyền tải đã đưa vào vận hành với công nghệ ngày càng hiện đại như: đường dây nhiều mạch, nhiều cấp điện áp, cáp ngầm cao áp 220kV, trạm GIS 220kV, hệ thống điều khiển tích hợp bằng máy tính…
Việc phát triển bền vững các hệ thống điện cao áp, trung áp và lưới diện phân phối đã góp phần quan trọng vào an ninh năng lượng và phát triển các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Từ những năm 91-92, ngành điện chỉ có khoảng 6.000MW công suất đặt, đến 2013, ngành điện đạt trên 31.000MW, với sản lượng 127 tỷ kWh; lưới điện quốc gia đã vươn đến khắp các vùng núi hẻo lánh xa xôi, đến vùng biên giới hải đảo như Cô Tô, Phú Quốc... Đến cuối năm 2013, ngành điện đã có 9.002/9.086 xã có điện lưới (99,1%) và 16,225/16,620 triệu hộ dân nông thôn có điện lưới đạt (97,62%).
Có thể nói công trình đường dây 500kV Bắc - Nam được ví như một “đường điện Trường Sơn”; một công trình đã đi vào lịch sử. Một “con đường” mà ở đó quyết định nhanh nhất, táo bạo nhất, khảo sát thiết kế nhanh nhất, giải phóng mặt bằng nhanh nhất, thi công nhanh nhất, hiệu quả nhất và có thể còn nhiều cái nhất nữa, xứng đáng là một bản anh hùng ca của người lao động tham gia xây dựng công trình nói chung và ngành Điện lực Việt Nam nói riêng trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
NangluongVietnam.vn
SỰ KIỆN BẠN ĐỌC QUAN TÂM
"Việt Nam đã chuẩn bị kỹ cho tình huống trên Biển Đông"
Khi cảnh sát Biển Việt Nam áp sát giàn khoan HD981 Trung Quốc
Quan hệ Nga - Trung và ẩn số Biển Đông
Việt Nam, Nga và trật tự thế giới mới?
"Trung Quốc đừng hy vọng kìm cương Triều Tiên"
Campuchia trước chính sách nước đôi của Trung Quốc
Chủ tịch Kim Jong-Un qua lời kể của ngư