RSS Feed for Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 2) | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ năm 28/03/2024 18:33
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 2)

 - Như đã đề cập ở kỳ trước, việc ứng dụng phi năng lượng đã được Chính phủ Việt Nam quan tâm từ rất lâu, nhất là ứng dụng năng lượng nguyên tử trong y tế, nông, công nghiệp, điện hạt nhân vẫn chưa thể phát triển do nhiều lý do khác nhau. Do vậy, Việt Nam cần thiết phải thúc đẩy ngay các hoạt động nghiên cứu, nhất là tiến hành các chiến dịch tuyên truyền để người dân hiểu rõ lợi ích của chiếu xạ thực phẩm, sự an toàn của thực phẩm chiếu xạ, qua đó có được sự lựa chọn tốt hơn, giảm thiểu các dịch bệnh có nguồn gốc thực phẩm, hay các trường hợp ngộ độc do sử dụng thực phẩm không an toàn.

Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân: Những vấn đề cấp thiết (Kỳ 1)
Tại sao Việt Nam cần điện hạt nhân?

TRẦN MINH QUỲNH - Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam)

Triển vọng ứng dụng công nghệ chiếu xạ đảm bảo chất lượng vệ sinh thực phẩm

Nhằm giảm thiểu tổn thất sau thu hoạch cũng như các dịch bệnh có nguồn gốc thực phẩm, cũng như tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp đặc thù, và đảm bảo cung cấp thực phẩm chất lượng, an toàn cho người dân, những năm gần đây Việt Nam đã chú trọng tới các công nghệ bảo quản, chế biến hiện đại.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhiều biện pháp khác nhau đã được áp dụng để kiểm soát vấn đề mất an toàn vệ sinh thực phẩm. Song do hệ thống quản lý, hạ tầng yếu kém và tâm lý tiểu nông của phần lớn nông dân nên nhiều người vẫn bỏ qua các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, tiếp tục cung cấp thực phẩm không an toàn, được chế biến và bảo quản bằng các hóa chất không rõ nguồn gốc hoặc với liều lượng quá cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng, làm gia tăng tình trạng bệnh lý. Nhất là số ca mắc các bệnh nan y như tim mạch, tiểu đường, ung thư… [3-5]. Vì vậy, việc triển khai ứng dụng các công nghệ bảo quản hiện đại, an toàn và thân thiện môi trường như công nghệ chiếu xạ là điều hết sức cần thiết.

Chiếu xạ thực phẩm đã được chứng minh là hiệu quả trong việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm tổn thất và có thể kéo dài thời gian bảo quản, đặc biệt khi kết hợp với các công nghệ khác như bảo quản lạnh, hút chân không, đóng gói bằng màng vi khí hậu điều chỉnh… Nhờ khả năng đâm xuyên của bức xạ gamma, tia X hay chùm điện tử gia tốc (EB), công nghệ này có thể dễ dàng thực hiện với thực phẩm đã đóng gói, chống tái nhiễm trong quá trình đóng gói, rất phù hợp để cung cấp thực phẩm an toàn cho các vùng xa nơi sản xuất.

Vì vậy chiếu xạ thực phẩm đã được nhiều nước chấp nhận để đảm bảo chất lượng vệ sinh và bảo quản nông sản thực phẩm trong thương mại quốc tế. Phương pháp này cũng là sự lựa chọn lý tưởng để cung cấp thực phẩm an toàn cho người dân khi xảy ra thảm họa thiên tai hay dịch bệnh, giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu.

Phương hướng và giải pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ chiếu xạ thực phẩm tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội

Là cơ sở nghiên cứu đầu tiên được trang bị thiết bị chiếu xạ và nguồn phóng xạ hoạt độ cao, Trung tâm đã luôn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, tạo điều kiện nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ trong lĩnh vực CNBX nói chung và chiếu xạ thực phẩm nói riêng. Trung tâm đã xây dựng được đội ngũ cán bộ nghiên cứu có đủ năng lực chuyên môn đủ khả năng tiến hành các hoạt động nghiên cứu triển khai ứng dụng chiếu xạ thực phẩm trên quy mô lớn.

Trong suốt 25 năm qua, Trung tâm đã thiết lập được các quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu chuyên ngành trong và ngoài nước để tiến hành nhiều đề tài, dự án nghiên cứu liên quan đến chiếu xạ thực phẩm và triển khai được một số ứng dụng CNBX phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đáng chú ý, Trung tâm đang làm điều phối chương trình hợp tác vùng liên quan đến chiếu xạ thực phẩm, và gần đây đã được VINATOM cũng như Bộ KHCN hỗ trợ Dự án cải tạo thiết bị phục vụ chiếu xạ kiểm dịch hoa quả tươi cho mục đích xuất khẩu.

Tuy nhiên, Trung tâm vẫn chưa thể trang bị đầy đủ các thiết bị nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực thực phẩm, các nhóm nghiên cứu còn rất mỏng, nên vẫn chưa thể thực hiện các chương trình nghiên cứu lớn, mang tính chiến lược để đẩy mạnh ứng dụng chiếu xạ thực phẩm trong việc cung cấp thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng trong nước, cộng với nhu cầu về thực phẩm chiếu xạ trong nước chưa thực sự cấp bách nên hoạt động triển khai ứng dụng công nghệ chiếu xạ thực phẩm vẫn chưa được như kỳ vọng.

Với định hướng xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh về “Ứng dụng CNBX trong lĩnh vực Sinh học và Nông nghiệp”, trong đó chiếu xạ thực phẩm cũng là một hướng ưu tiên, chúng tôi dự kiến sẽ đẩy mạnh đồng thời việc nghiên cứu cũng như tuyên truyền về tính hiệu quả của công nghệ và tính lành của thực phẩm chiếu xạ, hướng tới phát triển công nghệ chiếu xạ thực phẩm thay cho các biện pháp xử lý hóa chất, thường để lại dư lượng độc hại, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường.

Các nghiên cứu mới sẽ tập trung vào việc đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm bằng cách áp dụng xử lý chiếu xạ, giúp tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam, cũng như nghiên cứu sản xuất thực phẩm sạch cho người dân trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh, hay sản xuất thực phẩm vô trùng cho bệnh nhân ghép tạng.

Chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp như sau:

Thứ nhất: Xây dựng các kế hoạch hợp tác đào tạo trong và ngoài nước để bổ sung kiến thức, kinh nghiệm và nâng cao năng lực cho cán bộ khoa học trẻ và tham gia các hoạt động hướng dẫn sinh viên, nghiên cứu sinh để tìm kiếm các sinh viên có năng lực, nhiệt tình, say mê nghiên cứu khoa học bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao cho trung tâm.

Thứ hai: Tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị thông qua các dự án bổ sung nguồn, tăng cường năng lực nghiên cứu, khuyến khích trang bị các dụng cụ, trang thiết bị phân tích và đo lường thông qua các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ.

Thứ ba: Tiến hành các nghiên cứu mới trong lĩnh vực chiếu xạ thực phẩm không chỉ cho mục đích cung cấp thực phẩm có chất lượng đảm bảo, giảm thiểu việc lạm dụng hóa chất bảo quản, mà còn chú trọng đến hai hướng nghiên cứu khác là gây đột biến phóng xạ để tạo và chọn giống cây trồng, vi sinh vật hữu ích; và tạo các chất có hoạt tính sinh học dùng trong nông nghiệp từ phế phụ phẩm ngành công nghiệp thực phẩm.

Thứ tư: Mở rộng hoạt động dịch vụ chiếu xạ, đa dạng hóa sản phẩm thực phẩm chiếu xạ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khu vực phía Bắc. Trước mắt, tập trung thực hiện Dự án cải tạo thiết bị để cung cấp dịch vụ chiếu xạ kiểm dịch hoa quả tươi xuất khẩu, nâng cao giá trị hàng nông sản cho người dân. Sau nữa là đẩy mạnh ứng dụng chiếu xạ để đảm bảo chất lượng vệ sinh đối với thực phẩm chức năng, thực phẩm tươi và thực phẩm chế biến cho mục đích tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Thứ năm: Tiếp tục xây dựng các quan hệ hợp tác trong và ngoài nước, nhất là với các tổ chức quốc tế liên quan để cùng thực hiện các chương trình nghiên cứu mới trong lĩnh vực chiếu xạ thực phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng nông sản chiếu xạ của Việt Nam.

Kết luận

Công nghệ bức xạ đã đạt được những bước phát triển nhanh chóng đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là khu vực phía Nam của đất nước, dù vẫn là một ngành khoa học khá mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, đóng góp của chiếu xạ thực phẩm vẫn chủ yếu dành cho xuất khẩu, dù công nghệ này cần phải được phát triển để thay cho biện pháp xử lý hóa chất độc hại trong kiểm dịch thực vật, diệt côn trùng, nấm mốc gây hại cũng như giảm nhiễm vi sinh, đảm bảo chất lượng và kéo dài thời gian bảo quản nông sản thực phẩm. Cần thiết phải thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, và nhất là tiến hành các chiến dịch tuyên truyền để người tiêu dùng hiểu rõ lợi ích của chiếu xạ thực phẩm, sự an toàn của thực phẩm chiếu xạ, qua đó có được sự lựa chọn tốt hơn, giảm thiểu các dịch bệnh có nguồn gốc thực phẩm hay các trường hợp ngộ độc do sử dụng thực phẩm không an toàn.

Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội là đơn vị sự nghiệp khoa học đầu tiên của Việt Nam được trang bị thiết bị chiếu xạ bán công nghiệp và nguồn phóng xạ hoạt độ cao. Mặc dù đã tiến hành rất nhiều nghiên cứu với kết quả khẳng định tính hiệu quả của công nghệ và tính lành của thực phẩm chiếu xạ, việc triển khai ứng dụng chiếu xạ thực phẩm phục vụ đời sống vẫn rất khiêm tốn.

Để trung tâm có thể đẩy mạnh ứng dụng CNBX phục vụ nông nghiệp như mục tiêu trong “Kế hoạch tổng thể chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến 2020” của Chính phủ, là tạo các giống cây trồng có giá trị kinh tế cao, các chế phẩm từ CNBX phục vụ nông nghiệp, các kỹ thuật khống chế côn trùng gây hại, đảm bảo khả năng bảo quản lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, Trung tâm cần theo đuổi các giải pháp mang tính dài hạn về phát triển nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ và đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ thông qua các đề tài, dự án.

Chúng tôi cũng rất cần sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, sự chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo và đặc biệt là sự nỗ lực của các cán bộ trong Trung tâm.

Có thể nói rằng, chiếu xạ thực phẩm là một trong những công nghệ đầy tiềm năng. Với ưu thế trong việc kiểm soát côn trùng, ký sinh trùng, vi sinh vật gây bệnh, khả năng diệt côn trùng, vi khuẩn, nấm mốc có trong thực phẩm đã đóng gói, công nghệ này đã khẳng định được ưu thế trong việc giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản thực phẩm, bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Cùng với việc chính phủ Việt Nam đã và đang hoàn thiện các quy định, điều luật liên quan đến xử lý chiếu xạ các loại thực phẩm, công nghệ này chắc chắn sẽ thu được nhiều thành công trong thời gian tới. Với các dự án đầu tư cải tạo thiết bị để chiếu xạ kiểm dịch hoa quả tươi, khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam chắc chắn sẽ tốt hơn trên thị trường quốc tế, đặc biệt là ở những nước bắt buộc phải áp dụng biện pháp kiểm dịch bằng bức xạ như Canada, Mỹ, Úc…

Công nghệ này cũng được kỳ vọng phát triển mạnh trong thời gian tới để thay cho biện pháp xử lý hóa học trong kiểm dịch và bảo quản để cung cấp thực phẩm an toàn cho người dân, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và giảm thiểu tác hại biến đổi khí hậu, nhất là khi được tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện truyền thông.

(Kỳ tới: Tăng cường năng lực ứng dụng kỹ thuật hạt nhân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường biển)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

8. Tổng cục thống kê. Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011. NXB Thống kê 2012

9. Johannes Friedrich Diehl. Will irradiation enhance or reduce food safety. Food Polycy 1993, 143-151.

10. Trần Minh Quỳnh. Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ bức xạ ở Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Tạp chí Khoa học và công nghệ hạt nhân, số 30, 2012: 15-21.

11. http://www-naweb.iaea.org/nafa/fep/crp/fep-irradiated-foods-for-ICP-2RCM.pdf

12. Nguyễn Duy Lâm, Đinh Phương Thảo, Trần Minh Quỳnh, Trần Băng Diệp, Hồ Minh Đức. Nghiên cứu bảo quản vải tươi bằng xử lý tia gamma kết hợp với hóa chất và làm lạnh. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, 1996.

13. International Consultative Group on Food Irradiation. Facts about food irradiation. IAEA, Vienna, Austria, 1999 .

14. Tamikazu Kume and Setsuko Todoriki. Food Irradiation in Asia, the European Union and the United States: A status update. Radioisotopes, Vol 62, No 5, 2013: 291-299.

 

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động