Cần có cơ chế đặc thù đẩy nhanh tiến độ các dự án điện
00:06 | 07/06/2012
|
Cần cơ chế hợp lý và thiết thực hơn
Báo cáo của Tổng cục Năng lượng cho thấy, sau 5 năm thực hiện TSĐ VI, khối lượng đầu tư công trình nguồn điện chỉ đạt 69% so với kế hoạch; tổng công suất nguồn đưa vận hành được 10.081 MW, đạt 69,1%; đầu tư lưới điện truyền tải chỉ đạt 50% so với yêu cầu.
Theo ông Phạm Mạnh Thắng, Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng, nguyên nhân chủ yếu của việc chậm tiến độ là do khó khăn trong việc thu xếp vốn; đền bù giải phóng mặt bằng; giá cả vật tư thiết bị tăng cao; năng lực nhà thầu hạn chế; khó khăn trong việc nhập khẩu than khiến một số dự án nhiệt điện than phải thay đổi thiết kế.
Việc phụ thuộc nhiều vào thiết bị ngoại nhập, các khung pháp lý chưa đủ sức thu hút đầu tư, thiếu đồng bộ trong quy hoạch lưới điện dẫn đến phải điều chỉnh dự án. Ngoài ra, việc thiếu kiểm tra, rà soát của các cơ quan quản lý, thiếu chế tài xử phạt nhà thầu chậm tiến độ… cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ dự án.
Bên cạnh đó, các cơ chế đặc thù cũng đã bộc lộ nhiều bất cập trong việc thực hiện vai trò kiểm soát và quản lý nhà nước, đảm bảo tính tổng thể của dự án… Quyết định phân kỳ thiết kế kỹ thuật thành các giai đoạn khiến cho việc xác định khối lượng có thể bị chồng chéo, dẫn đến xác định tổng dự toán và dự toán chi tiết không chính xác.
Tổ chức thi công không đồng bộ, không phát huy tốt tính chủ động, sáng tạo và tiết kiệm của nhà thầu. Việc chỉ định thầu toàn bộ các bước triển khai dự án có thể dẫn đến tình trạng một số tổng thầu phải triển khai đồng thời nhiều dự án trên toàn quốc nên dàn trải nguồn nhân lực, không đáp ứng kịp tiến độ và chất lượng.
Đặc biệt, việc cho phép chủ đầu tư quyền tự duyệt vốn đầu tư, chỉ định thầu trong quá trình xây dựng đã dẫn đến chi phí đầu vào tăng cao. Đó cũng là nguyên nhân tạo nên áp lực về tăng giá điện.
Vì vậy, để đảm bảo an ninh năng lượng giai đoạn 2011 - 2015, bên cạnh các cơ chế chính sách ưu đãi của TSĐ VI, rất cần thiết có thêm cơ chế chính sách mới nhằm rút ngắn thời gian đầu tư và nâng cao hiệu quả của dự án điện cấp bách trong TSĐ VII.
Động vào đâu cũng vướng
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng, nan giải nhất vẫn là bài toán vốn đầu tư. TSĐ VII yêu cầu vốn đầu tư cho ngành Điện bình quân khoảng 5 tỷ USD/năm. Đây là mức đầu tư rất lớn và hoàn toàn vượt quá khả năng của các doanh nghiệp. Các nhà đầu tư nước ngoài thì không mấy hào hứng vì giá điện chưa đủ hấp dẫn. Đó là chưa kể những vướng mắc về chính sách.
Báo cáo lập dự án yêu cầu phải xác định rõ nguồn vốn trước khi khởi công, trong khi các ngân hàng lại yêu cầu phải có dự án rõ ràng mới có thể thỏa thuận vốn vay. Quy định các ngân hàng không được cho vay quá 15% vốn điều lệ; doanh nghiệp có hệ số nợ vượt quá 3 lần vốn điều lệ không được bảo lãnh vay vốn… đã khiến nhiều chủ đầu tư rất khó xoay xở.
Hiện nay, một số đường dây truyền tải 500 - 220kV đồng bộ với các nhà máy điện độc lập đã được lên kế hoạch đầu tư nhưng vẫn đang giậm chân tại chỗ và có nguy cơ không đảm bảo tiến độ vì hệ số nợ của Tổng công ty Truyền tải Điện Quốc gia (NPT) đã lên tới 4,46 lần nên không được bảo lãnh vay vốn.
Để tháo gỡ, NPT đang đề nghị chủ đầu tư xây dựng nhà máy điện độc lập làm luôn đường dây. Tuy nhiên, việc này cũng không đơn giản vì chưa có cơ chế thu hồi vốn. Hơn nữa, trong tương lai, những đường dây này sẽ không chỉ truyền tải điện cho một công trình, trong khi hiện nay chưa có quy định rõ ràng trong việc phân định vốn đầu tư, quản lý, vận hành...
Cơ chế phải kèm chế tài
Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cho rằng, để thu hút được các nhà đầu tư, mấu chốt vẫn là giải quyết vấn đề giá điện. Trong TSĐ VII, Chính phủ đã chủ trương tới năm 2020 sẽ điều chỉnh giá điện ở mức 8-9 cent/kWh.
Bộ Công Thương cũng đang đề nghị Chính phủ ban hành các cơ chế đặc thù cho các dự án cấp bách trong TSĐ VII như: cho phép các tổ chức tín dụng được cho vay vượt các hạn chế tín dụng 15% vốn tự có của ngân hàng với một khách hàng và vượt 25% với một nhóm khách hàng; cho phép bảo lãnh vay vốn không bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu tài chính của chủ đầu tư; cho phép miễn thẩm định hiệu quả kinh tế của từng dự án riêng lẻ đối với các dự án xây dựng lưới truyền tải.
Đồng thời, cần có cơ chế để địa phương vào cuộc giải quyết khó khăn trong giải phóng mặt bằng.
Về những vướng mắc trong chuẩn bị thủ tục đầu tư, lựa chọn nhà thầu đối với các dự án điện cấp bách, đề nghị cho phép chủ đầu tư được chỉ định đơn vị tư vấn, được đàm phán trực tiếp với nhà thầu đã thực hiện dự án có cùng công nghệ trước đó…
Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cũng cho biết, để bảo đảm tính khách quan và hiệu quả đầu tư của dự án, sẽ có cơ chế giám sát các quyết định của chủ đầu tư trong việc lựa chọn nhà thầu. Đồng thời, hàng năm sẽ rà soát kỹ để tìm nguyên nhân chậm tiến độ của dự án, từ đó sẽ có chế tài xử phạt hợp lý.
Những nhà thầu và chủ đầu tư không đủ năng lực sẽ không cho tham gia các dự án tiếp theo. Ngoài ra, để đảm bảo vận hành tốt các dự án, cần có sự ràng buộc trách nhiệm của các bên liên quan. Đó là, EVN phải đầu tư lưới truyền tải đồng bộ với tiến độ dự án nguồn, thỏa thuận ký hợp đồng mua bán điện với chủ đầu tư các dự án nguồn.
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam phải đảm bảo cung cấp đủ khí và than cho các dự án nguồn điện cấp bách.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư ưu tiên nguồn vốn ODA và các nguồn vốn song phương cho các dự án điện trong TSĐ VII. Bộ Tài chính phê duyệt bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho các công trình cấp bách.
Ngọc Loan (nguồn: baocongthuong)