VNEEP3: Nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo an ninh năng lượng Việt Nam
06:28 | 09/11/2020
Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả của Việt Nam: Thực trạng và vấn đề đặt ra
Nỗ lực chuyển đổi chất lượng sử dụng năng lượng thông qua các Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
Nhìn từ góc độ kinh tế, nhiều tổ chức quốc tế có uy tín nghiên cứu về an ninh năng lượng cho rằng, việc đầu tư hiệu quả 1 đồng vốn cho sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả mang lại lợi ích tương đương với việc đầu tư 4 đồng vốn cho phát triển nguồn cung.
Còn ở khía cạnh bảo tồn tài nguyên năng lượng, Việt Nam được coi là quốc gia có nguồn tài nguyên năng lượng phong phú, đa dạng (thủy điện, than, dầu khí, gió, mặt trời…) nhưng qua thực tế phát triển đất nước, chúng ta đã phải chuyển từ trạng thái xuất khẩu ròng năng lượng sang nhập khẩu vào năm 2015.
Từ thực tế đó, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản, chính sách pháp luật yêu cầu sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Cụ thể, các hoạt động cải thiện chất lượng sử dụng năng lượng đã được thống nhất hóa trong khung hành động tổng thể thông qua Chương trình mục tiêu về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, được tổ chức triển khai liên tục trong 10 năm (2006 - 2015).
Báo cáo tổng kết việc thực hiện Chương trình mục tiêu này cho thấy, Việt Nam đã thu nhận những thành tựu bước đầu rất khả quan nhằm cải thiện chất lượng sử dụng năng lượng. Chúng ta đã ban hành và tổ chức triển khai Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (năm 2011) và các văn bản dưới luật gồm nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các thông tư. Mặc dù việc hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cần tiếp tục phải rà soát, chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước trong giai đoạn mới nhưng có thể thấy rằng: Việc nhanh chóng ban hành, đưa vào thực thi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cải thiện chất lượng sử dụng năng lượng là kết quả tạo nền tảng pháp lý quan trọng nhằm điều tiết hoạt động xã hội theo hướng trách nhiệm với tài nguyên năng lượng của đất nước. Đã có rất nhiều các tổ chức quốc tế uy đánh giá rất cao kết quả này của Việt Nam. Các đánh giá khách quan cũng chỉ ra rằng, khoảng 16 triệu TOE tương đương với khoảng 103,7 tỷ kWh giờ điện mà Việt Nam đã tiết kiệm được so với nhu cầu năng lượng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội nếu không thực hiện Chương trình mục tiêu này.
Lãng phí năng lượng - một nguyên nhân làm suy giảm năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo dữ liệu công bố của Ngân hàng Thế giới, chỉ số cường độ năng lượng sơ cấp tính theo MJ/USD theo giá cơ sở 2015 cho năm 2019 của Việt Nam vào khoảng 5,94 thấp hơn so với Trung Quốc (6,69) nhưng cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực ASEAN (Malaysia: 4,68; Indonesia: 3,53; Philippines: 312) và Ấn Độ (4,73), cao hơn rất nhiều so với các nền kinh tế hiện đại. Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam không hiệu quả về mặt năng lượng so với ngay cả các nền kinh tế khác trong khu vực.
Các khảo sát, tính toán cho thấy, hiệu suất sử dụng nguồn năng lượng trong các nhà máy điện tua bin hơi đốt than, dầu của nước ta chỉ đạt được từ 28% - 36%, thấp hơn so với các nước phát triển khoảng 8 - 10%; hiệu suất các lò hơi công nghiệp chỉ đạt khoảng 60% năm 2010, và được nâng lên xấp xỉ 70% vào năm 2014. Tuy nhiên, mức này vẫn thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 10% và nếu so với các nước phát triển thì còn thấp hơn nữa.
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng (TKNL) trong công nghiệp sản xuất xi măng, thép, sành sứ, đông lạnh, hàng tiêu dùng... của nước ta có thể đạt trên 20%; lĩnh vực xây dựng dân dụng, giao thông vận tải có thể tới trên 30%; khu vực sinh hoạt và hoạt động dịch vụ tiềm năng tiết kiệm cũng không nhỏ. Kinh nghiệm của các quốc gia thành công khi xây dựng một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao, sử dụng hiệu quả năng lượng, giảm phát thải, cho thấy các hoạt động tổng thể về TKNL cần được duy trì, củng cố và hoàn thiện liên tục cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vì vậy, việc duy trì các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại Việt Nam cần thiết phải tiếp tục thực hiện với một kế hoạch và chiến lược dài hạn có định hướng rõ ràng, nhằm loại bỏ những rào cản và kiểm soát nguy cơ phát sinh về gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng quốc gia, đồng thời phải giải quyết được 5 vấn đề cốt lõi:
Thứ nhất: Giảm áp lực đầu tư nguồn điện mới.
Thứ hai: Bảo tồn nguồn tài nguyên năng lượng quốc gia.
Thứ ba: Giảm cường độ năng lượng quốc gia.
Thứ tư: Bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.
Thứ năm: Đem lại lợi ích kinh tế, xã hội và xây dựng môi trường sống an toàn, văn minh, hiện đại cho người dân, doanh nghiệp, cộng đồng.
Trên cơ sở đó “Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030” (sau đây gọi là Chương trình VNEEP3) là bước triển khai nhằm cụ thể hóa chiến lược phát triển năng lượng, một thành tố quan trọng trong Chiến lược phát triển bền vững quốc gia, với mục tiêu tiến tới đưa Việt Nam trở thành một quốc gia sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng.
Chương trình VNEEP3 - Kỳ vọng đột phá về cải thiện chất lượng sử dụng năng lượng của Việt Nam
Ngày 13 tháng 3 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình VNEEP 3 tại Quyết định số 280/QĐ-TTg, như vậy, sau 4 năm kể từ khi kết thúc Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2006 - 2015), Việt Nam đã có kế hoạch tổng thể tầm quốc gia về sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm, cũng như bảo tồn tài nguyên năng lượng.
Dự án Đầu tư hệ thống thu hồi nhiệt thải để phát điện tại Nhà máy Xi măng Vissai Ninh Bình.
Thực hiện các mục tiêu trên, 3 giải pháp nền tảng mà Việt Nam cần phải kiên trì áp dụng đó là:
(i) Việt Nam phải lồng ghép mục tiêu tiết kiệm điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào trong kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế...
(ii) Lồng ghép mục tiêu tiết kiệm điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong kế hoạch chiến lược đổi mới công nghệ, kỹ thuật quốc gia. Không nhập khẩu những công nghệ, thiết bị lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, tiêu thụ điện cao vào Việt Nam...
(iii) Lồng ghép mục tiêu tiết kiệm điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào chiến lược về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước... Chương trình quốc gia đặt ra 2 mục tiêu quan trọng đặt trọng tâm vào việc cải thiện chất lượng sử dụng năng lượng tại tất cả ngành, lĩnh vực của Việt Nam, tạo tiền đề đưa ngành năng lượng Việt Nam phát triển bền vững, ổn định, phục vụ hiệu quả việc phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Mục tiêu đầu tiên của Chương trình quốc gia là tiết kiệm từ 8 -10% lượng năng lượng cần thiết để phát triển đất nước theo kịch bản phát triển bình thường. Mục tiêu này được phân kỳ thành 2 giai đoạn:
1/ Giai đoạn 2019 - 2025 với yêu cầu cả nước phải tiết kiệm từ 5 - 7% tổng năng lượng yêu cầu cho phát triển đất nước trong giai đoạn.
2/ Giai đoạn 2026 - 2030 với yêu cầu tiết kiệm từ 8 - 10% tổng năng lượng cần thiết để phục vụ việc phát triển đất nước theo kịch bản phát triển bình thường.
Từ các giải pháp nền tảng trên, Chương trình quốc gia vạch rõ 9 nhóm nhiệm vụ trọng tâm nhằm thống nhất, hiệu quả hóa, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, tiến tới xã hội hóa việc thực hiện hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên phạm vi cả nước. Các nhóm nhiệm vụ trọng tâm bắt đầu từ công tác pháp quy, pháp chế đến công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; đổi mới sáng tạo trong sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả cũng như yêu cầu phải tái cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; nâng cao công tác tuyển truyền nhằm cải thiện hành vi sử dụng điện, năng lượng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả. Đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế theo hướng tập trung các hỗ trợ tài chính cho đổi mới, cải tạo công nghệ kỹ thuật trong các lĩnh vực, ngành… có cường độ sử dụng năng lượng cao, tính cạnh tranh yếu.
Để Chương trình quốc gia triển khai có hiệu quả, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành và đặc biệt là UBND các tỉnh đặc biệt quan trọng, trong đó, việc triển khai thực hiện Chương trình tại các địa phương được coi là điểm mấu chốt quyết định việc hoàn thành các mục tiêu mà Chương trình quốc gia đã đề ra./.
TS. PHƯƠNG HOÀNG KIM