Tiết kiệm năng lượng 2015: Thiết thực và hiệu quả hơn
14:00 | 27/04/2015
Tiềm năng tiết kiệm năng lượng của Việt Nam là rất lớn
Theo Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương), năm 2014, mặc dù nguồn kinh phí hạn chế, nhưng các nội dung của Chương trình vẫn được bám sát, bảo đảm các mục tiêu đặt ra. Về tuyên truyền, chương trình đã tổ chức nhiều sự kiện, thu hút đông đảo nhân dân tham gia, như sự kiện Giờ Trái đất năm 2014 được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trên cả nước; Giải báo chí toàn quốc về TKNL đã thu hút hơn 500 bài; Cuộc thi “Tòa nhà hiệu quả năng lượng” và “Quản lý năng lượng trong công nghiệp và tòa nhà” đã giúp hơn 800 giải pháp TKNL được thực hiện...
Chiến dịch Giờ Trái đất 2015, với thông điệp “Tiết kiệm năng lượng - ứng phó biển đổi khí hậu” đã tiết kiệm được 520.000 kWh.
Các chương trình quảng bá sản phẩm TKNL, các giải pháp TKNL trong công nghiệp, trong các tòa nhà thương mại và hộ gia đình được tuyên truyền rộng khắp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh việc triển khai các chương trình hỗ trợ xây dựng hầm biogas và lắp đặt bình nước nóng năng lượng mặt trời, các đợt tuyên truyền trong khối học sinh, sinh viên cũng được đẩy mạnh. Các nội dung tuyên truyền được thực hiện phù hợp với các nhóm đối tượng xã hội, thu hút được sự quan tâm và thực hiện của người dân và doanh nghiệp.
Chương trình đã hỗ trợ hơn 200 doanh nghiệp thực hiện kiểm toán năng lượng và thực hiện các giải pháp mà đơn vị tư vấn đưa ra và hỗ trợ hơn 100 doanh nghiệp xây dựng mô hình quản lý năng lượng theo quy định của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và ISO 50001. Chương trình đã xây dựng được nền tảng tiêu thụ năng lượng trong các ngành chế biến thủy sản, ngành giấy, ngành xi măng. Đặc biệt, trong năm 2014, chương trình đã triển khai thành công mô hình bình đun nước nóng quy mô công nghiệp theo mô hình Công ty dịch vụ năng lượng (ESCO).
Chương trình dán nhãn năng lượng năm 2014 đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, giúp loại bỏ những sản phẩm không đạt mức hiệu suất năng lượng, tạo thói quen cho người dân trong việc sử dụng các sản phẩm có hiệu suất năng lượng cao. Đặc biệt, các nhà sản xuất và nhập khẩu đã thay đổi những dây chuyền sản xuất lạc hậu và hàng hóa nhập khẩu đã có sự lựa chọn về hiệu suất năng lượng.
Ông Trịnh Quốc Vũ - Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và TKNL - Tổng cục Năng lượng nhận định, những kết quả đạt được trong năm 2014 đã góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu chung của Chương trình, tạo cơ sở để người dân và doanh nghiệp thực hiện các giải pháp TKNL trong thời gian tới.
Để phù hợp và sát với thực tế hơn, ông Vũ cho biết, thời gian tới, Chương trình sẽ tập trung vào 4 nội dung chính.
Thứ nhất, các hoạt động tuyên truyền sẽ đi sâu vào các giải pháp TKNL để các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt hơn việc TKNL, đưa chương trình TKNL trở thành hoạt động thường xuyên trong xã hội.
Thứ hai, Chương trình dán nhãn năng lượng tiếp tục được đẩy mạnh triển khai, trong đó tập trung kiện toàn xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn về hiệu suất năng lượng của các thiết bị, tiêu chuẩn thử nghiệm để chứng nhận nhãn năng lượng cho các thiết bị, tổ chức triển khai công tác hậu kiểm để bảo đảm sự tuân thủ của các đơn vị tham gia chương trình dán nhãn năng lượng.
Thứ ba, xây dựng định mức cho một số ngành tiêu thụ nhiều năng lượng và xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện các giải pháp TKNL, giúp các DN công nghiệp xây dựng được các mô hình sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững trong tương lai.
Thứ tư, xây dựng và triển khai các quỹ, cơ chế tài chính thúc đẩy các dự án đầu tư vào TKNL như cơ chế cho vay ưu đãi, cơ chế hợp đồng dịch vụ năng lượng (ESCO).
Năm 2015, năm cuối cùng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2. Ông Trịnh Quốc Vũ cho biết, Chương trình sẽ tập trung nhiều hơn vào việc đánh giá hiệu quả của các nhiệm vụ đã thực hiện đối với các tỉnh, thành phố, trong đó tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn tại các tỉnh. Đồng thời, tập trung nhiều hơn vào các nhiệm vụ xây dựng và ban hành chính sách về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại các tỉnh, thành phố nhằm chuẩn bị cơ sở pháp lý và kế hoạch hành động bền vững cho thời gian tiếp theo.
N. VĂN