Chuyển đổi số của EVNNPT: Thành tựu, khó khăn và mục tiêu hướng tới
08:28 | 05/09/2023
Xây dựng hệ thống truyền tải điện Việt Nam đồng bộ, hiện đại Để đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, hạ tầng cung cấp điện phải là một trong bốn lĩnh vực trọng tâm cần tập trung nguồn lực phát triển đồng bộ. Lưới điện truyền tải của Việt Nam ban đầu chỉ có vài đường dây 30,5 kV riêng lẻ nhằm cung cấp điện cho một số hoạt động phục vụ việc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Vượt qua nhiều thách thức, khó khăn cùng lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc; hệ thống truyền tải điện quốc gia của Việt Nam đã ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành trục xương sống của hệ thống điện Việt Nam, từng bước kết nối với lưới điện các nước trong khu vực, góp phần cùng ngành Điện đáp ứng nhu cầu cung cấp điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. |
EVNNPT chủ động nguồn vốn cho phát triển lưới điện truyền tải Ngày 1/7/2008, Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) chính thức ra đời. Kể từ đây, công tác đầu tư xây dựng và quản lý vận hành hệ thống truyền tải điện đã được thu về một mối. Cũng từ đây, EVNNPT là xương sống, là bộ phận không thể thiếu trong hạ tầng năng lượng, là công cụ để nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế, là tiền đề để gây dựng thị trường điện cạnh tranh. |
Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia: 15 năm thành lập và phát triển Ngày 1/7/2008, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) chính thức được thành lập. Trong suốt 15 năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), sự hỗ trợ rất lớn từ Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và các đối tác, EVNNPT đã thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, vận hành lưới truyền tải điện an toàn, ổn định, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. |
Ông Lưu Việt Tiến - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia. |
Xin ông cho biết trong những năm qua, EVNNPT đã ứng dụng các công nghệ cụ thể gì trong công tác quản lý vận hành, cũng như đầu tư xây dựng?
Ông Lưu Việt Tiến: Để kịp thời phát hiện các bất thường, khiếm khuyết, các điểm phát nhiệt, các chuỗi cách điện bị bẩn do bụi từ các nhà máy, công trường, EVNNPT đã ứng dụng thiết bị bay UAV mang theo camera độ phân giải cao để chụp ảnh, phân tích, xác định các điểm có nguy cơ sự cố và xử lý sớm. Việc ứng dụng UAV giúp tăng năng suất lao động, giảm thiểu rủi ro mất an toàn cho người lao động khi trèo cao, nhất là vào thời điểm nắng nóng.
Bụi bẩn tích tụ trên bề mặt cách điện tăng gây ra tổn hao điện, nếu xuất hiện độ ẩm cao hoặc sương mù, sương muối có thể làm phóng điện dọc theo bề mặt của chuỗi cách điện gây ra sự cố làm gián đoạn khả năng truyền tải điện. Trước đây, việc vệ sinh là một công việc rất khó khăn và nguy hiểm do người thợ phải trèo lên từng chuỗi cách điện và dùng giẻ để vệ sinh lau chùi từng bát cách điện. Truyền tải điện phải đăng ký cắt điện đường dây để thực hiện vệ sinh cách điện gây ảnh hưởng đến kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân.
EVNNPT đã ứng dụng thiết bị rửa sứ hotline để vệ sinh các chuỗi cách điện trên đường dây, đặc biệt là các vị trí cột gần các nhà máy xi măng, các mỏ khai thác đá… Thiết bị này dùng nước đã lọc có điện trở suất cao với áp lực đủ mạnh để rửa sạch các lớp bụi bẩn bám trên chuỗi cách điện trong tình trạng đường dây đang mang điện. Đây là một công nghệ thông dụng và tiên tiến đã được ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới. Thông qua đề tài nghiên cứu khoa học, EVNNPT đã chế tạo và ứng dụng rộng rãi thiết bị với giá thành rẻ hơn nhiều lần so với thiết bị nhập ngoại.
Trong bối cảnh các dự án đầu tư xây dựng đường dây, trạm biến áp trải dài trên cả nước, lực lượng quản lý xây dựng của các Ban QLDA mỏng, việc ứng dụng công nghệ hỗ trợ quản lý đầu tư, giám sát, nghiệm thu là rất cần thiết.
Đối với các công trường xây dựng trạm biến áp, EVNNPT ứng dụng camera giám sát trực tuyến, qua đó nắm được tiến độ xây dựng, nhân lực và phương tiện trên công trường. Đối với các dự án xây dựng đường dây, EVNNPT ứng dụng thiết bị bay UAV để chụp ảnh, hỗ trợ công tác nghiệm thu, đánh giá chất lượng đối với các thiết bị trên cao. Hồ sơ dự án, tiến độ triển khai, khối lượng thực hiện, tình hình chuẩn bị đầu tư, đấu thầu, thanh quyết toán của các công trình xây dựng được quản lý trên hệ thống đầu tư xây dựng IMIS.
Công nhân EVNNPT soi phát nhiệt thiết bị tại trạm biến áp. |
EVNNPT đặt mục tiêu đến năm 2025 trở thành doanh nghiệp số. Xin ông cho biết các giải pháp EVNNPT triển khai để hoàn thành được mục tiêu này?
Ông Lưu Việt Tiến: Thực hiện lộ trình chuyển đổi số ngành Điện để hiện thực hoá mục tiêu trở thành doanh nghiệp số của EVN vào năm 2025, EVNNPT đã tập trung chuyển đổi số trong 3 lĩnh vực quan trọng là quản lý đường dây, trạm biến áp và thí nghiệm. Nhờ đó, EVNNPT thay đổi tổng thể và toàn diện về cách làm việc và phương thức tổ chức sản xuất cho gần 5.000 người lao động trực tiếp trong 3 lĩnh vực nêu trên. Đặc biệt, việc ứng dụng thiết bị bay UAV, phân tích hình ảnh do UAV thu thập được bằng trí tuệ nhân tạo (AI) giúp thay đổi toàn diện công tác quản lý vận hành đường dây.
Đồng thời, EVNNPT ứng dụng camera xử lý hình ảnh bằng AI lắp đặt trên đỉnh cột đường dây tại một số vị trí đặc biệt; trang bị hệ thống quan trắc, cảnh báo sét nhằm cảnh báo sớm về sự hình thành, xuất hiện của các cơn giông - sét tiềm năng gây nguy hiểm tới lưới điện truyền tải, định vị và xác định các thông số của cú sét; trang bị hệ thống định vị sự cố cho các đường dây 500 - 220 kV quan trọng, nhân viên vận hành xác định nhanh được điểm sự cố với sai số trong khoảng 200 m và quản lý lưới điện truyền tải thông qua hệ thống thông tin địa lý (GIS). EVNNPT chuyển các trạm biến áp 220 kV sang vận hành không người trực, lắp đặt nhiều thiết bị giám sát trực tuyến như khí phân hủy trong dầu máy biến áp (DGA)… mang lại hiệu quả tích cực trong việc tăng năng suất, tăng hiệu quả, giảm chi phí truyền tải điện.
Hiện nay, EVNNPT đang vận hành 160 trạm biến áp 500 - 220 kV điều khiển tích hợp bằng máy tính (đạt tỷ lệ 86%) trong đó có 1 trạm biến áp 220 kV tại Thủy Nguyên (Hải Phòng) là trạm biến áp số 220 kV đầu tiên của Việt Nam. Các trạm biến áp này cho phép giám sát chặt chẽ tình trạng vận hành của thiết bị; thu thập, lưu trữ đầy đủ các dữ liệu vận hành của thiết bị, phục vụ cho công tác đánh giá, quyết định sửa chữa, bảo dưỡng đồng thời cho phép áp dụng các giải pháp tự động hóa trạm biến áp.
EVNNPT đã chuyển 118 trạm biến áp 220 kV sang thao tác xa từ các trung tâm điều độ hệ thống điện miền đạt tỉ lệ 79%, nhờ đó tiết giảm gần 600 lao động so với trạm biến áp có người trực thao tác tại chỗ.
EVNNPT đang xây dựng các trung tâm giám sát vận hành trạm biến áp không người trực tại 4 công ty truyền tải điện, dự kiến hoàn thành trong quý 3/2023.
Bên cạnh đó, 100% dữ liệu thiết bị trên lưới truyền tải điện đã được số hóa trên phần mềm quản lý kỹ thuật PMIS, 100% dữ liệu công tơ đã được kết nối vào hệ thống thu thập và quản lý số liệu đo đếm MDMS.
Đâu là những khó khăn, thách thức của EVNNPT trong tiến trình chuyển đổi số, thưa ông?
Ông Lưu Việt Tiến: Khi triển khai lộ trình chuyển đổi số, mặc dù EVNNPT có quyết tâm mạnh mẽ nhưng khó khăn lớn nhất của chuyển đổi số là thay đổi thói quen của mọi người. Thách thức lớn nhất của chuyển đổi số là có nhận thức đúng, từ lãnh đạo đến CBCNV.
Một khó khăn nữa là nhiều phần mềm quản lý kỹ thuật, phần mềm dùng chung, hệ quản trị cơ sở dữ liệu, các quy trình nghiệp vụ hiện có, khả năng đảm bảo an toàn an ninh thông tin… chưa theo kịp yêu cầu về chuyển đổi số
Tuy nhiên, chuyển đổi số là cơ hội vô giá để ngành truyền tải điện phát triển dựa trên những đột phá về công nghệ số. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, chúng ta sẽ bị tụt lại sau các quốc gia khác xa hơn nữa. Ngược lại, nếu tận dụng cơ hội này chúng ta sẽ theo kịp các tổ chức truyền tải điện tiên tiến trên thế giới.
Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình chuyển đổi số của EVNNPT và các nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới là gì, thưa ông?
Ông Lưu Việt Tiến: Trong quá trình chuyển đổi số, công nghệ là phương tiện, còn con người là yếu tố quyết định sự thành công. Nhận thức rõ điều đó, ngoài hoàn thiện hạ tầng, công nghệ, EVNNPT đặc biệt quan tâm đến nguồn “nhân lực số”, cùng với việc hình thành nên thói quen, thay đổi nhận thức của người lao động để bắt nhịp với xu thế chuyển đổi số.
Người lao động của EVNNPT đã quen với môi trường thực trong nhiều năm. Chuyển lên môi trường số là thay đổi thói quen, đây là việc khó, là việc lâu dài. Tuy nhiên văn hoá của người Việt Nam nói chung, cũng như CBCNV của EVNNPT nói riêng là thích ứng nhanh với cái mới, ham học hỏi cái mới, sáng tạo trong ứng dụng cái mới nên tôi tin tưởng vào việc thay đổi nhận thức, thói quen của người lao động.
Trong những năm qua EVNNPT đã tổ chức nhiều khóa đào tạo chuyển đổi nhận thức cũng như đào tạo chuyên sâu về chuyển đổi số, đặc biệt là về an toàn an ninh thông tin, huấn luyện trí tuệ nhân tạo (AI).
Trong thời gian tới, bên cạnh việc tiếp tục đào tạo nâng cao nhận thức cho người lao động về chuyển đổi số, EVNNPT khuyến khích người lao động không ngừng học hỏi, không ngừng nâng cao nhận thức, mỗi ngày mỗi người tự học cho mình những điều mới.
Xin cảm ơn ông!
XUÂN TIẾN (THỰC HIỆN)